NGÀY 18 THÁNG 5 NĂM 2018
Vía Bát Nương Diêu Trì Di Hoa Kim Hải
Đạo Tràng Chu Văn An
Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền
Tiếp Điển Ứng Khẩu Lưu Xuất Kinh Văn
PHÁP ÂM #153
Quyên quyên gián đoạn chí đồng chu
Xuân XUÂN [THU] hạ dĩ đào hoàng kim GIỖ
Tốc tốc kỳ quy đáo giảm loàng khí
Duyên đáo ngọa lai cáo Bửu Kỳ đa.
[QUYÊN = một hàm ý là nói ĐỖ QUYÊN tức là con chim quốc (như trong câu "nhớ nước đau lòng con quốc quốc"), mượn chữ QUYÊN nói chữ QUỐC; một hàm ý khác là nói THỤC QUYÊN nghĩa là người con gái đẹp và diệu hiền. GIỖ = ngày giỗ thứ hai của Xuân Thu, mùng 4 tháng 4 âm lịch.]
Đoạn kỳ chi chí lữ cù nga
Đoan đoan nguyệt nguyệt [chính nguyệt] hạ đàng già nan kỷ
Thong dong đạo kỳ bàn la ngũ
Toan khí đáo giàn mận khí hoa.
[đoan nguyệt = tháng Giêng]
Vân vi ĐẠO QUỐC màn cay nghiệt
Định thế chu kỳ đáng tiên phong
Dong KỲ BA tam độ CÀN NGŨ
Toan toan kiếm kiếm diệu tâm kỳ đa
Dương HOA KIM MỘC đàn khai diệu ngà
Khán nghị phong tiên đáo dạ trần nay
Phút đoạn cuối đà kỳ ngoạn mục
Thống thống diệu đề BẢNG KỲ BA
Loan phong diệu mẫn toàn đang kỷ mật
Cơ thiết giáp long châu đà ngũ di
BẠCH hàn di đoạn háo cung vi
Bát BÁT TIÊN [NƯƠNG] chi đề thủ dò kỳ
Tam tam thống lý mạc diêu hoan đà
Vũ phong đang na mẫn kỳ tốc lễ
Phúc lệnh kỳ ban đáo Thiên Đài
DU DA TỲ BÁT ĐOẠN PHÂN TRẦN
[DU DA TỲ = DA DU ĐÀ LA TỲ KHEO NI = Bà Da Du Đà La là vợ của thái tử SĨ ĐẠT TA, sau trở thành Tỳ Kheo Ni đệ tử của Phật Thích Ca. BÁT = BÁT NƯƠNG BẠCH LIÊN HOA = BÁT LIÊN HOA (8 ĐÓA SEN). Ba chữ Bát Liên Hoa hàm ý nhắc tới câu chuyện TÁM ĐÓA HOA SEN của nàng Sumidha (Bhadra) và lời nguyền phu thê với tu sĩ khổ hạnh Sumedha. Toàn bộ câu DA DU ĐÀ BÁT ĐOẠN PHÂN TRẦN là có ý nói đến câu chuyện này.
Trong KINH BẢN SINH kể về các tiền kiếp của đức Phật Thích Ca có đoạn như thế này: ở tiền kiếp lúc Đức Phật là tu sĩ khổ hạnh Thiện Huệ (Sumedha) ngài được đức Phật thời ấy là Nhiên Đăng (Dipankara) thọ ký sẽ thành Phật trong tương lai. Cũng vào thời ấy tiền kiếp bà DA DU ĐÀ LA (Yasodhara) đã gặp Phật Thích Ca (lúc đó là tu sĩ Thiện Huệ) lần đầu tiên. Khi ấy tu sĩ Thiện Huệ đang chờ gặp Phật Nhiên Đăng tại thành Paduma. Ông đã cố tìm mua hoa để lễ Phật Nhiên Đăng nhưng tất cả các hoa đã được nhà vua mua hết. Lúc Phật Nhiên Đăng đang đến gần, tu sĩ Thiện Huệ (tiền kiếp Phật Thích Ca) chợt nhìn thấy một cô gái tên là Sumidha (tiền kiếp bà Da Du Đà La) cầm TÁM HOA SEN trong tay. Tu sĩ Thiện Huệ đề nghị với cô mua một đóa. Cô Sumidha đã đưa cho tu sĩ Thiện Huệ năm đóa với điều kiện ông phải xin Phật Nhiên Đăng thọ ký rằng họ sẽ trở thành vợ chồng trong tất cả các kiếp tiếp theo.
Trong Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh phẩm Trì, Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói, ở đời sau trong pháp hội của trăm nghìn muôn ức đức Phật, DA DU ĐÀ LA sẽ được thành Phật.]
ĐẠO PHÚC DUYÊN cơ hạ mục y
Tiền đăng hủ tục đạn phúc lạc kỳ
Du ngoạn đó đây khắp ban ngay
Chầu THIÊN bản quý ĐÀ DU phổ
[ĐẠO PHÚC DUYÊN = cũng là nói đến "nhân duyên đời và đạo" từ lần đầu tiên giữa tu sĩ Sumedha với nàng Sumidha, giữa thái tử Sĩ Đạt Ta với nàng Da Du Đà La, dài về tới hiện tại. ĐÀ DU = DA DU ĐÀ LA.]
Đáng đáng liệt DUNG HOA phúc tề
Hữu đà NHI lễ chấp tâm tư
Chiếu mạng phong trần lạ tức nghi
Tiền hậu quý mạng cầu chi quý
Đang ngẫu TRẦN long tả bì chi
Khúc thúc đàn kêu dạ mấn kỳ
Diễu diễu ngân nga cống tỳ ba gian
DIÊU KHÔNG HƯ khí đoạn khuất kỳ đàng
Dìu ánh trăng vàng Lưu Mộc Huê.
PHÁP ÂM #154
Đáo tiên phong trần lai PHÚ CẨM
Nan chi hồi đâu chí KIỀN phân
DI HOA Đông THU hàn hoàn tố mục
Khúc tiên đề chiếu phong nghi
Tang tang thương đồ tháo lộ cơ đề
Chiên Nương KHẤU TẠ MỐI CHI DUYÊN
Kỳ thúc Tam HƯNG chìu lập thất
Đẩu [Bắc] HOÀNG THIÊN chi chí đề vong
Khấu cáo biên kỳ đà ngưu hạng mục
Chỉ tái hạ điền khâu báo di lai
Nương Nương khấu tạ đài phúc tận
Giáng hạ trần đáo đáo phi nương.
[Phú Cẩm = Cẩm Phú = Cẩm Tú = Cẩm Bửu = Cambhu = nữ vương Jyeshthâryâ của Campuchia là một hóa thân trước đây của Nhị Nương Diêu Trì Cung. Ngoài phong danh Cẩm Tú Tiên Tử Nhị Nương còn những phong danh khác như là Cẩm Bửu Tiên Tử, Hồng Liên Công Chúa, Tây Vương Mẫu, vân vân. Kim thân hiện nay của Nhị Nương chính là Đức Chưởng Thế Thái của Giáo Hội Thiên Trường thế danh Thái Kim Anh.
DI HOA…THU ... KHẤU TẠ MỐI CHI DUYÊN = Di Hoa Kim Hải Bát Nương Diêu Trì Cung mà hóa thân kiếp vừa qua là bà Phạm Xuân Thu, cố hiền nội của Đức Ngài Hà Hưng Quốc. Bà hạ thế tại TP Đà Nẵng, Việt Nam ngày mùng 2 tháng 3 năm Kỷ Hợi 1959 và đã qui thiên tại TP Gardena, California, Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 4 năm Bính Thân 2016 lúc 17:12 UST. Bà "khấu tạ mối chi duyên" giữa bà và Đức Ngài cũng như mối chi duyên giữa Bát Nương và Nhị Nương. CHIÊN NƯƠNG = Bát Nương Di Hoa Kim Hải xưng. HƯNG = HÀ HƯNG QUỐC, thế danh Đức Ngài. ĐẨU BẮC = Huyền Thiên Thượng Đế.]
DUNG giang khấu tạ bái THIÊN chầu
Đà mơn chí tại tọa liên HOA
GIANG [HÀ] dầu tất dạ tốn ban triều
Phúc khải HOÀNG khái chiếu tần NHI
Can hướng đà mực đồn chi dĩ hạn
Tấu mận gian nan dạ khiết liên ban
Chầu bái cung đảnh tiền cung đại
Căn thiết liên tiền khúc dạ nguy nan
Trần khái hạ lao lao phúc hạ
TIÊN PHỤ đề trì chí mân NHI.
[Hoa Dung công chúa, một tiền kiếp của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, tức Liễu Hạnh Tiên Tử, Ngũ Nương Diêu Trì Cung. Bà thường xưng là Dung Nhi hoặc Liễu Hạnh Nhi với Đức Ngài.]
Pháp Âm #155. https://youtu.be/3WKWhqlVfWk
PHÁP ÂM #155
Mai XUÂN THU qui ĐÀ [LA] đồ thống lệ [đẹp]
Đàn khúc nhạn ca khiếu [kêu] nang [rộng trải] ca
[DA] DU đàn hoan khấu TỲ [KHEO NI] ban lệ
DI [HOA] hạ đàng khai báo quy lai
Hầu chi mạng đáng kỳ chung hạ
Mai mai quy chiếu thấu Tề Nguyên.
[Tề Nguyên Đế là vua Bắc Tề, tên Cao Vĩ, rất sùng bái Đạo Lão, đến đổi quân của Võ Văn nhà Châu đã vây chặt thành Bình Dương mà trong thành vẫn còn tựa án giảng đạo. “Châu Sư đã vang dầy tên pháo, sao Tề Ngươn còn giảng đạo hoài hoài.” Sãi Vãi.]
Dương hào chiếu CHIẾU ÁNH TỪ BI
Nang nang [rộng trải] tri kỷ hòa ánh sáng diệu
HUYỀN HUYỀN KHÔNG LAI ĐÁO MÀN BA
LOAN loan chi BẠCH đàn CUNG khải dạ
Thấu thấu bay bay vị thiết đa
Can nghi phủ chí đàn nhi dĩ
Thiết thiết câu ca lập thơ nhi
Đàn đàn phơi nghĩ CÀN thâu bản
Thống thống nhứt nghi nan chí bái HOA
NHỊ NHỊ THIÊN đề ĐÀ DU nhàn
La kỳ trung can láng câu ca
Trù phú THIÊN Can MỘC liệu HÀ
[HOA NHỊ = Nhị Nương Diêu Trì Cung. NHỊ THIÊN = HOÀNG NHỊ THIÊN = HOÀNG DI THIÊN = Đức Ngài. THIÊN HÀ = hiệu của Đức Ngài. MỘC = chiết tự chữ THẬP trên chữ BÁT dưới (mượn chữ BÁT nói chữ NHƠN) = ám chỉ THẦY NHƠN THẬP. Một mặt khác, THIÊN CAN MỘC gồm hai năm Giáp và Ất. Giáp là Can năm sanh của Đức Ngài Hà Hưng Quốc. HUYỀN KHÔNG LAI ĐÁO KỲ BA = Huyền Thiên Thượng Đế lai đáo kỳ ba.]
Dấu dấu tình thâm bâu lượng tha
Gióng gióng tiếng gọi bao thức lặng
KỲ TAM HẠ THẾ quý nhung hòa.