BÌNH MINH ĐẠI ĐẠO 3
Văn-Phòng Đại-Đạo
Ngọ thời, 15-5 Canh-Tuất (18-6-1970) Pháp Đàn: Bạch-Liên-Bạch * Đồng Tử: Huỳnh-Hoa ____________ (Tái cầu:) VÔ-CỰC TỪ-TÔN DIÊU-TRÌ KIM-MẪU — Mẹ linh hồn, Mẹ ban ân lành chung cho các con trần thế được hưởng cảnh thái bình lạc thú.
VÔ sanh hữu dưỡng khí không phù, CỰC thạnh dương thành huyết mạch lưu, TỪ tốn ôn hòa cân cốt thể, TÔN nghiêm linh điển chiếu bì phu. DIÊU hồn vạn loại qui Bồng-đảo, TRÌ chí vận hành chuyển vạn thù, KIM khuyết huyền vi phân trược giáng, MẪU ban sơn hải luật cang nhu. Mẹ miễn lễ các con. Nầy các con, giờ nay vì thương các con nên Mẹ thúc đẩy các con vận hành đạo-đức cho kịp thời, nên Mẹ hạ trần ban cho các con một luồng điển Tiên-Thiên để hấp thụ hầu cởi mở tâm phàm bớt cơn phiền não mà trở về ngôi xưa vị cũ. Nay Mẹ dụng huyền linh để vận dụng tinh thần các con gấp-rúc cho kịp kỳ công quả; hơn nữa, các con cần phải làm tròn bổn phận đối xử người đời đang chung đụng. Vì tình thương nhơn loại, các con cần tìm những điều thích nghi giúp người tùy theo khả năng của các con. Đó là điều hành thiện mà các con đã in sâu vào nơi trí óc. Ngoài ra các con cần lập đủ tam công thì mới hãnh diện là nơi trần làm tròn trách nhiệm vì bổn phận. Nay, Mẹ hạ trần ban cho các con quyển Kinh BÌNH-MINH ĐỆ-TAM mà Đức Chí-Tôn vừa tả đề Thánh Tựa. Vậy các con thành tâm nghe Mẹ diễn tả:
Nhứt phiến tâm trung Đạo phát sanh, Huờn nguyên bổn thể đắc lưu hành, Thiên-thu bán mộng qui nguyên tánh, Bá-tuế vạn đầu nhiệt huyết thanh. Thích: - Một tấc lòng cang-trực của các con đầy đủ tinh thần tin tưởng, thì Đạo phát sanh dẫy đầy nơi tâm. Như vậy, lòng của các con đã chuyển luân theo lòng Mẹ vậy. - Các con đã biết rằng phần bản thân xác thịt nầy là giả tạm do khí huyết tinh-ba nhục thể cấu tạo không bền vững. Các con hãy nhìn điểm linh tồn tại kia mà vận dụng bản thân nầy trở thành điểm linh, để vận hành khí huyết trong cơ thể được điều hòa và luyện huờn nguyên chánh giác. - Muốn đạt Đạo, các con cần thật hành chánh pháp, tùy theo duyên kiếp mà hưởng lấy. Dù cho nơi trần thế các con có hưởng được ngàn thu thì cũng là chiêm bao nửa giấc. - Dù cho các con có sống đặng trăm tuổi thì cũng không hưởng được trọn đường lạc thú. Đó là những con đầy đủ hạnh phúc. Còn các con thiếu hạnh phúc thì phải chịu một bản thân đầy lam-lụ, vậy nên tinh thần bị sa-sút, lắm lúc phải điên cuồng bâng-quơ mờ kém. Vậy các con cần hiểu.
Túi Tạo-Hóa vô hình phát xuất, Từ khai thiên Vô-Cực chí linh, Chuyển qua Thái-Cực khai minh, Âm dương lưỡng tánh vô tình phát sanh. Khí âm dương lập thành nhựt dạ, Vận tam-tài biến hóa tam-tiêu, Tứ-Tượng vận chuyển phiêu-phiêu, Cang nhu thượng hạ luật điều không gian. Chuyển Ngũ-Hành ôn hàn thử nhiệt, Xây Bát-Quái thời tiết điều hòa, Đông Tây Nam Bắc phân ra, Cùng là tứ hướng một nhà chuyển luân. Không khí vận không ngừng thế giới, Phần vô-vi trọng tải muôn vàn, Động tịnh di-dịch chuyển sang, Gánh cân trái đất muôn ngàn vần xoay. Tam tinh ngự liên-đài chiếu sáng, Nhựt, nguyệt, tinh căn-bản càn-khôn, Ngũ-tinh xuất thế bảo tồn, Khai thành thất chánh triêu hôn định phần. Khai Thượng-Nguơn, Thánh Thần hạ thế, Đời Thánh-Đức phổ tế dân sanh, Cổ nhơn tợ thú tâm thành, Hữu đại Thánh-Đức, tại hành Thánh-tâm. Nên dụng đức hóa tầm vạn vật, Cảm hóa nhơn chơn thật lòng nhơn, Nguyên-căn hạ thế tuần huờn, Tinh thần vững đạt linh sơn phản hồi. Chuyển Trung-Nguơn trong thời tân tiến, Vì đỉnh chung vận chuyển tâm linh, Tạo nên cảnh vật bất bình, Tạo điều tranh đấu mất tình ái tha. Vì lòng của con Ta lợt Đạo, Dụng trí khôn cải tạo khuôn viên, Trung-Nguơn khắp cả trần miền, Đẩy xô vật chất tranh quyền uống ăn. Nhưng cũng còn bản năng đạo-đức, Trọng cang-thường từ bực thấp cao, Luân-lý tá thế đề trao, Giữ gìn qui củ chưa sao phế tàn. Chuyển Hạ-Nguơn muôn ngàn khổ hải, Vì kim-nhơn hình thảy tợ nhơn, Thú tâm bất trắc lai huờn, Khiến cho tranh đấu thua hơn bại thành. Dùng mưu chước phân ranh chia giới, Nào trí, ngu quyền lợi riêng nhau, Mới sanh nhĩ-ngã đồng bào, Cùng chung huyết-quản, con nào biết chi! Lòng tham-dục, sân, si, ái, nộ, Con khôn-ngoan tầm chỗ dung thân, Biết mình sống hưởng nơi trần, Nào ai đau khổ não cân mặc tình. Vì như thế phát sinh cách biệt, Lòng càng xa, khí huyết càng nung, Dẫn đường chỉ lối hãi-hùng, Đua tranh vật-chất vẫy-vùng phát sanh. Vì chung đỉnh xây thành xác thịt, Vì lợi quyền lấp bít bể dương, Vì quyền cao tột tứ phương, Muốn bầu vũ-trụ một đường tóm thâu. Biết bao phen Đạo mầu mở hội, Giải nghiệp trần sớm tối gỡ ra, Nào được mấy, hỡi con Ta, Mấy con nghe tiếng thi ca giác đời? ! Xâu chuổi hạt giải đời oan nghiệt, Niệm Bồ-Đề mài miệt sử kinh, Rồi ra cũng mất điểm linh, Hỏi sao thế ấy mẫu tình làm ngơ. Lòng từ bi như tờ giấy trắng, Đã hiện hình tâm chẳng in như, Khẩu Phật, tâm xà, tội dư, Khẩu xà tâm Phật, huờn hư dễ dàng. Nay chuyển thế, Đạo tràng khai hoát, Cho con Ta hỷ-lạc thừa hành, Tùy theo phong hóa lập thành, Cao-Đài Đại-Đạo chánh danh Ngọc-Hoàng. Truyền thế-giới khai tràng huấn-giáo, Cho con trần cải tạo tâm tư, Kỳ-ba Đạo mở bấy chừ, Ngọc-Hoàng tá thế Thiên-thư đề rành. Chuyển Đại-Đạo lập thành Nam-Việt, Dụng huyền linh giáo thuyết con trần, Lập đời Minh-Đức Tân-Dân, Chuyển nguơn tái tạo nơi trần phục nguyên. Khai kỳ hạ trần miền thất ức, Dựng đời tân tri thức lo toan, Niết-Bàn lập tại trần gian, Đâu còn như trước Niết-Bàn cõi không. Hỡi nầy trẻ, hội đồng gót Thánh, Đặng hưởng nhờ trong cảnh Thượng đời, Tại trần nầy hỡi con ơi! Hiền nhân Thánh-Triết chỉnh đời thuần phong. Nạn tiêu diệt tràn đồng là thế, Để lọc lừa hậu kế giáo dân, Thay Thượng-Đế, bậc Thánh Thần, Chuyển xây thế hệ vĩ nhân trị đời. Vì luật định trong thời khai hội, Chuyển BÌNH-MINH tiếp nối ĐỆ-TAM, Phái chi ứng dụng truyền ban, Trong nền Đại-Đạo, Ngọc-Hoàng chuyển ra. Hỡi nầy trẻ, con Ta phàm tục, Mẹ giáng trần trong lúc BÌNH-MINH, Chuyển khai Thánh-Triết toàn linh, DIÊU-TRÌ hạ bút khai minh con trần. Chớ bê-tha, ân-cần trau luyện, Nên phá mê thực hiện đại đồng, Chuyển xây máy Tạo lưu thông, Luật tuần-huờn định giáp vòng gặp con. Thế đã tận, đâu còn chờ đợi, Đợi chờ con cho tới tan tành, Ai gìn, ai giữ thân sanh, Ai nuôi, ai dưỡng trưởng thành đó con? Hay Mẹ đây lo toàn cho trẻ, Lúc bào thai điển Mẹ bố ban, Đến khi nhụy nở khai-quang, Chăm nom săn sóc lo tròn cho con. Vì tình nặng Mẹ còn trách nhiệm, Hạ điển quang hội diện cùng con, Dẫn đi từ bước chiều lòn, Lòn theo sở dục dạy con nên người. Con lớn lên tốt tươi tâm chí, Dụng huyền linh đạo-lý dạy con, Ngày đêm Mẹ luống mỏi-mòn, Khác nào xác thịt cùng con rẫm rờ. Con không biết, bơ-thờ với Mẹ, Con đọa đày lòng Mẹ nát tan, Nơi trần nặng nợ phải mang, Giải ra nhờ Đạo, trái oan kiếp nầy. Dứt đi con, nam tài nữ liệt, Dứt đi con, mài-miệt tu hành, Bền lòng nhơn-đạo cạnh tranh, Diêu-Cung Mẹ rước điển lành con Ta. Nếu như thế đọa sa mãi mãi, Điểm linh-quang thừa-thãi luân trầm, Như vầy biết mấy ức năm, Con Ta hạnh ngộ Mẹ tầm đến con! Đây nhắc lại ngòi son Mẹ điểm, Cho con Ta tầm kiếm tâm mình, Hiếu nghĩa danh lợi liệt trinh, Công danh phú quí bao nghìn đề danh. Hiếu: Tăng-Sâm lòng thành trọn hiếu, Hiếu danh thơm nghèo chịu hiếu tròn, Hiếu hiền-triết, đề bảng son, Hiếu truyền hậu thế các con nên gìn. Nghĩa: Phù-Mông danh thinh nghĩa cử, Nghĩa: Nghệ-Sư gìn-giữ nghĩa Thầy, Nghĩa đành dụi tên xạ ngay, Nghĩa lo tròn vẹn nghĩa nầy Mẹ phê. Danh: Ngô-Khởi sát thê cầu tướng, Danh còn nêu bốn hướng chê bai, Danh nầy ô-trược lắm thay! Danh mê-muội ấy nào ai học đòi. Lợi: Cổ-Hồ khá soi để tránh, Lợi mổ bụng để lãnh ngọc châu, Lợi là một việc làm đầu, Lợi như thế ấy, Hồ âu banh lòng. Liệt: Tề-Phụ thờ chồng liệt nữ, Liệt cương-tâm gìn giữ Mẹ chồng, Liệt đành thọ ngục ba đông, Hàm oan dấy động, Trời không mưa rày. Phú: Thạch-Sùng giờ nay chi xiết, Đến ngày cùng luyến tiếc được đâu, Chắt lưỡi suốt cả đêm hầu, Nằm trong xó kẹt có đâu thanh-nhàn. Bữa muối dưa phận an là đủ, Gương nêu kia bia trụ sử còn, Hồ-Cầu, Yến-Tử mỏi-mòn, Kiệm như thế ấy, bảng son nào đề. Gương kim cổ danh đề lưu lại, Cho con Ta thời đại lỗi thường, Kìa như Mạnh-Quang, Lương-Hường, Tề-mi cử-án phô-trương nghĩa tình. Như Tô-Huệ vẹn gìn dệt gấm, Vì tình nhà mắc cẩm Hồ-văn, Dâng lên chuộc tội ấy hằng, Sử đề lưu tích một lằn sáng soi. Kìa Châu-Thị rọi soi để tránh, Cùng Mãi-Thần trong cảnh gia bần, Tùng quân ngạ tử, xuất thân, Thủy tư phục thổ nếu cần năng thâu. Thương con trẻ trần hầu đau khổ, Bị kéo lôi vào chỗ nê-hà, BÌNH-MINH tiếp nối quyện ba, Giải ra tột lý con Ta ghi lòng. Ngày hội diện còn không xa lắm, Con hỡi con! Mẹ tẩm cam-lồ, Nhành dương rải nước linh hồ, Mát lòng con trẻ bồi tô nơi trần. Khôn các con thay thân hướng đạo, Khôn dìu nhau về đảo Bồng-Lai, Khôn đạo-đức, sắp an-bài, Khôn dìu-dắt bạn Thiên-Thai trở về. Khôn chỉ đường, nào quê nào cảnh, Khôn vạch ra để tránh để đi, Khôn đừng lợi kéo danh trì, Khôn lo đạo-đức, con thì khôn-ngoan. Khôn nhìn qua tâm can bào-tế, Khôn rọi vào tỳ phế nơi lòng, Khôn cần quan-sát tóc lông, Khôn nhìn thân thể ngoài trong khác nào. Khôn hàn-gắn, máu đào ngưng chảy, Khôn thương nhau thì phải giúp nhau, Khôn-ngoan là điển Mẹ trao, Khôn đừng lấn dại, thể dao cắt mình. Khôn phải tránh đời tình oan-trái, Khôn hại nhau, khôn ấy là không, Khôn như thể các con đồng, Khôn cần trả sạch trần-hồng trái-oan. Dại mà biết hành-tàng đạo-đức, Dại như vầy Tây-Vức trở về, Dại mà còn biết vị quê, Dại như thế ấy trọn bề hiếu trung. Dại các con nhìn cùng xương thịt, Dại bì phu phân-tích được đâu, Dại tránh hố thẳm hang sâu, Dại khờ đạo-đức làm đầu trở khôn. Dại mà biết bảo tồn linh tánh, Dại không nao cái cảnh khổ trần, Dại mà không chuộng bản thân, Dại điều-khiển được, con trần mấy ai. Dại nhìn lại mũi tai hình hạng, Dại xem qua bóng dáng ngoại nhân, Dại mà biết giữ chơn-thần, Dại nhìn có một nơi trần linh-quang. Dại un-đúc hành-tàng siêu đọa, Dại tế-cô trợ-quả thịt xương, Dại mà còn biết rau tương, Dại khôn, khôn dại, con tường đó con. Đây kết luận ngòi son Mẹ để, Lòng chơn thành tại thế con Ta, Đạo là một gốc chia ba, Lòng thành tín hiệp, con đà ghi tâm. Nầy các con, các con nên lưu tâm về phần hiện tại. Cuối Hạ-Nguơn cơ đời tận diệt, các con được xuất hiện nơi cõi tạm nầy là một điều quí hóa thay! Đó là cơ hội các con lập công bồi đức để tự lập mình về nơi ngôi vị. Sự tiến hóa về phẩm vị là do bản thân phàm của các con tại thế như vượt thuyền qua bể khổ, muốn vượt qua bể rộng mênh mông mà không dụng thuyền thì làm sao các con vượt đặng? Cũng như muốn vượt qua cõi phàm tục nầy, các con phải cần bản-thân chuyên-chở linh-hồn về nơi cõi hằng sống mà các con đang tạo nguồn sống ấy. Vậy các con cần phải giữ bản-thân nầy trong một đoạn đường để được trở về phẩm-vị, các con cần ghi nhớ.
Điển hồi Mẹ giã từ con, Cõi trần ở lại lo tròn công phu. Vẹt ra cho khỏi ngút mù, Bình-Minh nhớ lấy trời thu ánh vàng. Trời xuân lố bóng sắp tàn, Cành dâu điểm lá úa vàng ánh thu. Nắng chiều rọi xuống phù du, Đứng đầu chinh xế trời thu gió nà. Trống nhồi Bát-Nhã bôn-ba, Tiếng chuông rút điển Diêu-Tòa Mẹ thăng.
Giờ Mẹ ban ân lành chung các con ngày Lễ kỷ-niệm. Tiếp cầu Ngân-Hoa. Mẹ ngưng bút. Thăng... Văn-Phòng Đại-Đạo Ngọ thời, 15-5 Canh-Tuất (18-6-1970) Pháp Đàn: Huyền-Vân-Thánh * Đồng Tử: Ngân-Hoa * Độc Giả: Huệ-Đăng ____________ (Tái cầu:) TRƯỜNG-CANH THÁI-BẠCH — Bần-Đạo mừng Thiên mạng đàn tiền, chư hiền đệ muội an tọa nghe Bần Đạo khải. Giờ linh Bần-Đạo thọ lịnh DIÊU-TRÌ KIM-MẪU chuyển ngọn linh-cơ tả quyện BÌNH-MINH ĐỆ-TAM, đây là kỳ công của chư hiền trên bước đường hành đạo mà được ân huệ như giờ đây. Bần-Đạo dụng bút linh-thiêng chuyển thành đề thi bất diệt lưu lại quyển BÌNH-MINH muôn thuở.
Nhìn cảnh thiên-nhiên rất toại lòng, Then gài cửa đóng khắp ngoài trong, Gió mây xô đẩy không sờn núng, Sương tuyết phủ đè, chẳng nản lòng. Tác động khí thiên cung thế-giới, Vận hành mưa móc cấp tây đông, Phong điều thể có tay xoay chuyển, Võ thuận dường quay máy kéo vòng.
Kéo vòng nhựt nguyệt chuyển luân xa, Âm tụ dương thăng dựng giái-ba, Tinh-tú điều hòa ôn lãnh nhiệt, Cang nhu thạnh vượng định san hà. Ngao đầu thủy hỏa sanh tương khắc, Ngạn vĩ mộc kim ký tế hòa, Nam Bắc phân minh xây Bát-Quái, Tây Đông định vị đạo do tha.
Tha-thiết lòng nầy hỡi giái-ba, Nhìn xem thế-giới cõi ta-bà, Bao lằn không-khí quay như chóng, Mấy lớp mây dày quậng đảo qua. Cảnh vật nô đùa, chim nhịp cánh, Tiếng reo sáo dậy khắp rừng hoa, Trống nhồi Bát-Nhã đưa lòng chánh, Chuông giục u-minh nhốt ý tà.
Tà bóng chim chiều lăng-líu vang, Trống nhồi nội điện khắp cung đàng, Mai đơm mấy độ vàng tươi thắm, Cúc trổ màu nâu ửng thạch bàn. Vịnh khúc ngâm nga nghe giéo-giắt, Chày sanh khua khẻ nhịp hòa vang, Tiêu thiều trổi giọng miền âm các, Nhạc tấu kinh thiên giữa bệ hoàng.
Bệ hoàng rực-rỡ luật thiên-nhiên, Hoa nở bốn mùa tạo cảnh Tiên, Sớm đứng ra vào thi phú luận, Chiều ngồi lui tới luyện cờ Tiên. Trà ngâu đôi chập trêu lòng tục, Rượu cúc một bầu cợt dạ Tiên, Thử hỏi cảnh nầy ai thưởng thức, Hay là quanh-quẩn mãi trần miền.
Trần miền vây chặt nhốt thân sanh, Lăn-lóc bốn mùa bởi lợi danh, Thích-thú nhứt thời sao chác lấy? Thanh-nhàn muôn thuở chẳng toan hành. Bùa mê tửu sắc, gầy thân quí, Độc dược khí tài, diệt thể sanh, Tẩy não khách trần đang hấp hối, Vạch đường hồi phục tử huờn sanh.
Huờn sanh ngộ Đạo chuyển BÌNH-MINH, Dựng lại nguơn tam cứu thế tình, Thức tỉnh huỳnh-lương, toan gỡ tháo, Giấc nồng kê-mộng, rõ phù sinh. Võ môn bao lượt còn rơi lại, Tam cấp vượt qua toại ý mình, Cử bút huyền linh khai ám lộ, Vận hành cơ pháp quyện BÌNH-MINH.
BÌNH-MINH bế mạc hội Long-Hoa, Chấn động càn-khôn thế-giới hòa, Răn dữ để cho đời cải thiện, Thưởng lành chuyển giáo Đạo Kỳ-Ba. Thiên-điều ghi sẵn cần lưu dạ, Định luật ấn hành khá vượt qua, Cõi giác sẵn đường lên Cực-Lạc, Luân trầm không nẻo xuống nê-hà.
Nê-hà vực thẳm khổ linh-quang, Cất gánh bôn phi đến giữa đàng, Dừng bước bên lề xem nản chí, Sa chơn đường lối phải sầu than. Tinh-thần thiết-thạch vô ân oán, Khí tiết thư hùng diệt trái oan, Cõi tạm dật dờ, chim né ná, Người chung thưởng thức, cá ao vàng.
Ao vàng sen trổ nực mùi hương, Nước biếc mây ngăn núi chặn đường, Non gộp dạo chơi thong-thả bấy, Bể trần vun-vút quá tư-lương. Tiết hè nhiệt-độ pha tia nắng, Đông lộ âm hàn điểm đích sương, Nhơn vật nên hình ai nắn chạm, Bướm hùm dệt gấm thế tri tường.
Tường giọt Hồng-Hà nước đẩy xua, Nghe bên thuyền vách tiếng nô-đùa, Thi ngâm một vận đang lưu-luyến, Phú tả đôi bài khỏa tiết mùa. Trăng chóa bóng, chau-mày nhíu gọng, Rượu bầu lưng-lắc mí càng khua, Ngửa nghiêng sóng bủa trường giang hận, Kìa máy Thiên-cơ chớ bỡn đùa.
Bỡn đùa trăng chiếu tỉa đơm bông, Soi khắp rừng hoang lẫn núi sông, Chim chợt la vang hòa tiếng động, Gà tan giấc trổi nhịp khua lồng. Thân hình hữu thể ngồi trơ mỏi, Cảnh vật vô tình đứng thỏa mong, Chờ dứt khắc trường canh trở giọng, Màn sương banh xé lộ vầng hồng.
Vầng hồng vừa lộ ánh Bình-Minh, Vẹt tấm màn sương chiếu bóng huỳnh, Tia sáng xẹt ra soi địa trạch, Phóng quang phản ảnh cõi Thiên-Đình. Ôn-tồn sưởi ấm đêm hàn tịch, Dương thuận âm sanh vượng thế tình, Tác động khắc thì luân chuyển mãi, Nhịp lòng chưa thỏa bóng hồng chinh.
Hồng chinh cuộc thế cũng đồng y, So sánh tương quan có khác gì, Một kiếp mỏng mai trên bể hoạn, Đôi điều oan-trái trả rồi đi. Mảy lông chẳng lọt tuần-huờn luật, Ngàn thuở nào yên bởi kéo trì, Đã nhận thước lòng ân nghĩa cũ, Đền bồi tấc dạ hãy tường tri.
Tường tri giọt nước chảy tuôn tràn, Lóng trược thanh tồn được hưởng an, Lục tặc diệt trừ tâm phóng túng, Tam bành phân chất ý chu toàn. Sát sanh thọ khổ, tâm sanh sát, Đoạn tuyệt luân hồi, đoạn tuyệt oan, Chung nhựt khắc thì thần bất động, Dạ hành đồng niệm ngự Tiên-bang.
Tiên-bang trọng tải cả khôn-kiền, Chẳng vướng màn u ở tục miền, Rửa sạch lòng phàm cơn sống tạm, Trau-giồi trí não ngự ngôi Tiên. Ước-ao bóng dáng nơi Bồng-đảo, Thân chẳng hình dung tựa cửa thiền, Giọt nước cam-lồ đây sẵn tưới, Hồi-minh khử-ám giải ưu-phiền.
Ưu-phiền trí não lặn chìm sâu, Dung-dưỡng làm chi phải chác sầu, Dứt bỏ lại đời cơn sống tạm, Trau-giồi theo Đạo phải lo âu. Tuyết sa mặc tuyết, lòng không núng, Sương đổ tùy sương, mặc điểm đầu, Cái vết cổ-kim còn chạm đá, Nẻo buồn vạn đợi khắc giờ thâu.
Giờ thâu canh lụn cảnh đời tàn, Phản bổn nguyên lai lập Niết-Bàn, Xây đắp căn-cơ hồi lạc cảnh, Tô-bồi cội phúc ngự Tiên-bang. Bâng-quơ cõi tạm không giờ nghỉ, Nào thỏa tâm trung kế lỡ-làng, Vóc gấm nát tan thân tứ đại, Hình tô ruồng-rã thể cơ-hàn.
Cơ-hàn lặn hụp bể trần đây, Nghiệt quả đeo mang khó gỡ rày, Giải nghiệp thân phàm qua đến bến, Đoạn oan tâm cắt đứt cuồng dây. Ngon lòng trói buộc hồn linh bận, Mặc đẹp rịt-ràng bản thể đây, Cư bất cầu an, thư-thả phận, Thực vô bảo phúc, tử quân nầy.
Quân nầy tan nát buổi tồn sanh, Vì muốn khai thông mối Đạo thành, Nhịp sống không cùng lâm bí túng, Thác truyền nhân nghĩa đạt dương danh. Nước nguồn chảy mạnh tuôn bèo giạt, Non sựng trơ đầu rêu phủ xanh, Mưa nắng bốn mùa chan đốt cội, Gió lồng bao trận đẩy đưa cành.
Đưa cành liễu yếu phất-phơ qua, Lay chuyển nhành mai thấy oặt-òa, Một kiếp mảnh-mai nơi thế tục, Chỉ mành trước gió khá bôn-ba. Cõi đời tạm bợ đâu là quí, Sinh trưởng tồn nhiên khó mặn-mà, Ôm-ấp nẻo phàm thêm bận trí, Phủi rồi một kiếp có chi đa?
Đa nhìn túp núi tuyệt cao vời, Phưởng-phất chòm mây áng mặt trời, Che lấp khí thiên đang chói sáng, U buồn tiếng dội chớp giăng ngời. Báo điềm võ-lộ cuồng phong đến, Diễn tả lôi-âm chuyển động trời, Nước đổ từng không sa-sướt cuộn, Tràn trề mặt đất khỏa dòng khơi.
Khơi buồm trong lúc bọc chao thuyền, Tay lái nương lèo phải vững yên, Nước bủa bên lề chinh lắc mãi, Sóng đùa sau trước đẩy triền nghiêng. Cương tâm vượt bến dù giông-tố, Quyết chí thẳng lèo cậy gió thiên, Cần tiến trong khi xao-xuyến dạ, Thanh-bình nào cậy trấn lòng yên.
Yên phần nghiệp quả trả tròn xong, Nguyên thủy căn cơ giải tỏa lòng, Phật-pháp điểm tô tâm ngự trị, Tiên phương giồi-luyện trí khai thông. Cư trần bất nhiễm ư trần cấu, Tại thế nan tầm sanh thế không, Dục nguyện CAO-ĐÀI minh chứng quả, Thừa hành nhơn-đạo chỉnh thuần phong.
Thuần-phong mỹ-tục cảnh thiên-thai, Vận dụng Đài-Cao trở gót quày, Nuôi dưỡng tinh thần qua bể rộng, Giồi mài trí não vượt non đài. Bạch-y khỏa thể, lòng trong trẻo, Lịnh sắc vươn mình, dạ chẳng sai, Sống tạm thanh-nhàn an cuộc thế, Thác hồi Cực-Lạc ngự Bồng-Lai.
Bồng-Lai diệu-vợi vút từng mây, Ngũ sắc hoa đơm phún nhụy đầy, Gộp đá kinh thiên xem vía mất, Đèo truông triệt-địa thấy hồn bay. Muốn vào cảnh tại, lòng không vướng, Bốn vách trần hồng đạp phá ngay, Thân-thể hoại rồi theo cát bụi, Hồn linh ngự trị động non nầy.
Non nầy luyện Đạo đắc trường sanh, Núi dựng từng mây đá chất thành, Gió bắc tuông qua linh điển nhẹ, Mưa rào phái hột diệt vô sanh. Nước nguồn Tiên-động lao dòng chảy, Mây đáp Thần-sơn vướng cội nhành, Dưỡng tánh tứ thời thân bất hoại, Luyện tinh hóa khí thể tồn sanh.
Tồn sanh luật định máy tuần-huờn, Dục kiến Như-Lai tâm hải sơn, Bợn tục tát vào không vấy áo, Bụi trần pha trộn chẳng lem nhờn. Uống ăn vật thế ngừa ân-oán, Nuôi dưỡng linh-hồn dụng đức nhơn, Tránh những xa-hoa đời nhựa sáp, Gần bên thanh đạm đạo keo-sơn.
Keo-sơn một tấm chiếu trong ngần, Đức thiểu tài sơ khó vẹn phần, Kẻ trí biết Trời toan sấm chớp, Người mơ dẫn dắt trẩy sang lần. Con đường ngang tắt mau rời bước, Cái nẻo quanh vòng chậm mỏi chân, Chểnh-chệ xác phàm e phải lụy, Dập-dồn trí não khổ cho thân.
Thân phàm tiều-tụy bởi mê trần, Linh tánh lu-mờ bị vướng chân? Một phút mua vui trên vũng tục, Muôn thu sầu thảm dưới sanh phần. Đưa đường trụy-lạc qua bờ giác, Chỉ lối luân trầm vượt bến tân, Hỡi kẻ thức thời toan cất gánh, Hoàn thành sứ-mạng ngự đài vân.
Đài vân bay luyện ở không gian, Đỡ gót tới lui rọi điển đàn, Sớm vượt non Thần qua Bắc-hải, Chiều du Tiên-động ngự Nam-san. Bốn mùa chẳng vướng tâm phàm tục, Tám tiết nào vơi dạ Niết-Bàn, Kiếp tạm phú bần đâu thỏa đặng, Đền son lều cỏ phẩm nào an.
Nào an cuộc thế dẫy đao binh, Sấm chớp phong-ba nỗi bất bình, Chuyển động không gian rung trái đất, Vận hành nhựt nguyệt núi nghiêng chinh. Sơn băng địa chấn, đời tiêu diệt, Thủy kiệt thiên ngưng, đạo xuất hình, Trách-nhiệm thay thân truyền chánh-pháp, Thừa-hành sứ-mạng độ toàn linh.
Toàn linh lặn hụp bể trần vơi, Say đắm trầm luân hủy-hoại đời, Sớm chẳng lanh chơn qua bể cạn, Chiều toan luống-cuống lúc non dời. Hai tay nắm chặt đâu là hưởng, Một kiếp bê-tha uổng cuộc đời, Lái Phật thả thuyền đang chực bến, Đò Tiên chuyển máy rước người vơi.
Người vơi cập bến bước lên thuyền, Sẵn chiếc linh thoàn vượt lối Tiên, Chớ có dần-dà e trễ chuyến, Làm cho linh điển phải ưu phiền. Nghiệt-đài phú quí nào căn bản, Đạo-đức dinh hư ấy mối giềng, Phút chốc công danh tan vỡ sạch, Rồi mang nghiệp quả xích gông xiềng.
Gông xiềng rổn-rảng buộc kềm chơn, Sự muộn ăn-năn quá tủi hờn, Tái kiếp luân hồi tùy quả nghiệp, Đền bồi ác tục trọng dường sơn. Một mai tỉnh ngộ tâm mò tháo, Ngàn rủi mê say dạ nuốt hờn, Sống tạm trau-giồi tâm tánh tục, Làm cho linh điển phục lai huờn.
Lai huờn Tiên-cảnh đó người ôi! Nghiệp-quả đeo mang vay trả rồi, Thong-thả linh-hồn về Cực-Lạc, Quây-quần trí não lấp đường ngôi. Vương hầu khanh tướng xem là quý, Gặp gã vô thường phải phủi rồi, Quyền bính trong tay nào sửa đặng, Chỉ còn đạo-đức mới bền thôi.
Trường-Canh chiếu điển rọi Văn-Phòng, Lập quả công, Truyền chánh-pháp, Để khai thông. Cười... Giờ linh Bần-Đạo thọ sắc DIÊU-TRÌ hạ thế sắp bày đường Thiên-đạo hầu trao lại cho chư hiền Thiên mạng một món quà vô giá. Đó là điều quí báu trên cõi đời sống tạm. Chư Thiên-mạng hiền đệ nên yên lòng; trong khoảng đường tu học từ bực thấp lên cao tuần-tự như lúc bé thơ vào trường học vấn. Như vậy, chư hiền cố-gắng để đạt kỳ công ngày thi hội, vì về chương trình học vấn, ấu-nhi phải cố gắng thành tài, chẳng nên biếng lười sanh ra thất vọng. Đó là tuổi lúc thiếu thời vào trường học hỏi. Còn về phần Thiên-Đạo, chư hiền nên nhiệt tâm đắp bồi công hạnh tùy theo trình độ tiến lên. Vì trình độ bất đồng nên Đức CHÍ-TÔN mở rộng cho nhiều phần lập quả. - Một là cơ phổ-hóa phát khai nền Chánh-pháp. - Hai là lập đức tu thân chánh tâm hành thiện. - Ba là công-phu trau-luyện nuôi dưỡng linh hồn. Đó là rộng cho những điều tu luyện tùy theo duyên kiếp mình mà đạt lấy. Vậy giờ đây tiếp Kinh. Bần-Đạo luận đôi dòng cho chư hiền để ý. Bần-Đạo giã từ, điển hồi Tiên cảnh. Thăng...
Văn-Phòng Đại-Đạo Ngọ thời, 6-8 Canh-Tuất (6-9-1970) Pháp Đàn: Huệ-Chiếu-Quang * Đồng Tử: Huệ-Linh-Thông ____________ (Tiếp điển)
THÍCH hữu nguyên nhân bất nhiễm trần, CA đề tái tạo lập Tân-Dân, MÂU tâm thuẫn trí bàng môn giáo, NI huệ minh châu chánh-pháp phân. THÍCH-CA MÂU-NI — Ta mừng chư đẳng chúng sanh an tọa nghe. Ta thọ lịnh DIÊU-TRÌ lai phàm tả quyển BÌNH-MINH ĐỆ-TAM lưu lại cho chư môn đồ đôi dòng bút tích. Nầy chư môn đồ, Ta là một Thái-Tử, sống không đầy trăm tuổi, mà lo kế ngàn năm, thì thân tứ đại sẽ hóa ra bùn dơ cặn bã, hồn linh chả biết nương tựa nơi nao. Nhờ tâm giác phóng đại tiền kiếp mà ngày nay tên Ta còn nằm trong lòng chư chúng sanh, điển quang Ta mãi rọi nơi ác thế ngũ trược vì đại thệ của Ta chưa đạt, bởi chúng sanh còn mê; môn đồ thay thân Ta, mặc y mà hành không y. Thảm thay! Thương thay! Kìa thiên Kinh vạn quyển, vạn lý nhứt chơn, có đâu là khó, khó bởi lòng người chẳng chịu định tâm cho chơn như xuất hiện. Vì thế mà chơn giáo của Ta bị chinh đổ, không thành. Nay, kỳ Hạ-Nguơn, Đấng THƯỢNG-ĐẾ giáng lâm, hội Công-Đồng Tam-Giáo Ngũ-Chi Đại-Đạo để cứu đời, vạn thù qui nhứt bổn. Vậy môn đồ của Ta hãy vô tâm thiền định mà đi ngay vào con đường Đại-Đạo, ắt gặp Ta trong ngày cổi xác.
Ta thị ngã, chơn-linh THƯỢNG-ĐẾ, Giáng vườn Lam, cha Lỹ La-Thành, Thích-Ca phía Bắc-Ấn danh, Dưới chơn Hy-Mã điềm lành báo tin. Tịnh-Phạn-Vương cha mình mừng rỡ, Mẫu Gia-Ha ai nỡ lìa thân, Lọt lòng thất nhựt đơn thân, Thiên thượng thiên hạ tứ ân lo đền. Tam-thập-nhị tướng tên làm dấu, Bát-thập in ai thấu kỳ hình, Sĩ-Đạt Thái-Tử thông-minh, Sư phân ta biết thầy mình ngạc nhiên. Ta tột đỉnh danh quyền lộc cả, Nghiệp Đế-Vương ta sá như chơi, Thê nhi Ta dứt nợ đời, Giao du tứ hướng quyết thời đi tu. Đông phương dạo ngao du xem cảnh, Lão già nua, trông chạnh não-nùng, Nam phương người bịnh lạnh lùng, Đớn đau khổ sở đất bùn lấp dơ. Tây phương ngộ tình cờ người chết, Cảnh đau buồn luyến-tiếc gia đàng, Ba lần xúc động tâm can, Sanh lão bịnh tử khổ nàn triền-miên. Lần thứ tư dạo miền phương Bắc, Gặp Sa-Môn tâm đắc hỏi-han, Đường tu ta đã lập tràng, Về tâu phụ mẫu lên đàng xuất gia. Cha không thuận bày ra giải trí, Cảnh buồn rầu than-thỉ phủ vây, Thiếp hầu thuyết phục chẳng lay, Ra đi Ta định chí nầy phải nên. Học Đạo mầu xây nền Chánh-giáo, Tầm phương-châm cải-tạo thế-gian, Thoát vòng tứ khổ mênh-mang, Trở về Thánh-Đức Tam-Hoàng như xưa. Ra khỏi thành ta chưa hiểu Đạo, ép xác phàm để tạo đường siêu, Gấm y đổi bộ thay chiều, Khoác y đổi lớp qui-điều vị-tha. Thành Phê-Sa tìm mà Đạo cả, Chẳng bao lâu Vương-Xá mở đường, Nhiều Thầy chỉ giáo đa phương, Định tâm tự tạo một đường phát minh. Khổ-hạnh lâm tự mình triết-lý, Thấy sai lầm khắc kỷ sửa ngay, Sáu năm khổ ép xác này, Ta liền thay đổi sửa rày phép tu. Sông Ni-Liên phá ngu phát huệ, Năm đệ-đồ xài-xể khinh ta, Cuối cùng mới thấy THÍCH-CA, Đại-hùng đại-lực yêu ma kính nhường. Bồ-đề tọa, kim cương nhập định, Trí huệ minh chấn chỉnh tâm linh, Phật ma chỉ tại lòng mình, Đại-thừa đại biện bóng hình tương quan. Đắc Đạo vốn tự toan giác ngộ, Thông tiền căn, trừ cố căn tâm, Nhãn-quan huệ thấu vật tâm, Nhơn duyên thập nhị luân trầm quả phân. Tứ-Diệu-Đế luận phân Bát-Chánh, Tứ-Duy-Tường hiểu chánh phá tà, Luật Đạo thông suốt tinh hoa, Qui-y Tam-Bảo vị tha quên mình. Hỡi môn đồ! mấy nghìn năm lẻ, Hỡi chúng sinh! mau lẹ lên đường, Long-Hoa mạt kiếp rán bươn, Cha Trời giáng thế mở đường cứu nguy. ĐẠI-ĐẠO khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ, Danh CAO-ĐÀI qui cổ diệt kim, Ngũ-Chi Tam-Giáo qui nguyên, Vạn thù nhứt bổn về đền Ngọc-Kinh. Ta lưu lại nhơn sinh môn đệ, Từ đại-thừa, tiểu kế, sơn môn, Cổ truyền Khất-sĩ nhị tông, Thiên gia tinh hội Kỳ-Sơn Hảo-Hòa. Đắc Đạo thành Thích-Ca thống nhứt, Cảnh phân ly địa-ngục bàng-môn, Ai là đệ tử Thế-Tôn? Vị tha vong kỷ bảo tồn chơn tông. Ta vắn tắt đôi dòng nhắn nhủ, Tin hay không văn tự làm bằng, Long-Hoa phán đoán đọa thăng, Đại-đồng khỏi chối ăn-năn muộn màng. Một câu hỏi thí tràng đậu rớt, Hai mục-tiêu là thuộc chánh tà, Phân minh mê giác Phật ma, Chữ Tâm thị ngã chẳng mà đâu xa. Nhìn Phật-tử lòng ta thêm thảm, Thấy chư tăng mắc cạm bẫy trần, Ma vương tiếm ngự bản thân, Thất-tình lục-dục ân-cần cải qui. Đường giải thoát Tam-Kỳ Đại-Đạo, Đấng CHÍ-TÔN chuyển giáo CAO-ĐÀI, Khai trung-dung, một đường ngay, Lý chơn chỉ một Đạo rày không hai. Tán vạn thù Đông Tây Nam Bắc, Vốn đồng nguyên gieo rắc giống lành, Danh từ hình thức chia ranh, Cho phường ma quỉ giựt-giành con ta. Qui Tam-Giáo một nhà Đại-Đạo, Hiệp Ngũ-Chi hườn đáo bổn nguyên, CAO-ĐÀI đạt bảng chánh truyền, Con ta trổi bước xuống thuyền qua sông. Phá chấp ngã sắc không, không sắc, Tâm không bình vị đắc Như-Lai, Thích-Ca thị ngã Cao-Đài, Cao-Đài thị ngã đổi thay danh từ. Lời ghi chép thiên-thư hư thiệt, Để truyền ra lưu thuyết môn-đồ, Phật ngôn điển giáng bày phô, Hữu căn hữu kiếp xuống đò kỳ ba.
Kỳ ba lai đáo luật tuần-hoàn, Sanh trụ hoại tồn tại Việt-Bang, Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-Đạo, Hỷ phùng Ngọc-Đế ngự trần gian. Vạn thù qui nhứt chư tôn hội, Tam ngũ huờn nguyên khải giáo tràng, Cứu cánh mạt đời xây Thánh-Đức, Thượng-Nguơn chuyển lập tạo vinh quang. Nầy chư môn sanh, cõi trần đầy ô-trược, mùi danh lợi nhử câu làm cho chư môn sanh đang lặn hụp kiếm tìm nên phải xa rời tâm đại-tịnh. Kìa nhìn xem tịnh thủy bình bất động xuất hiện minh châu, như câu: Nhơn tâm thường thanh tịnh, Thiên địa tất giai tri. Nếu lòng người được yên lặng thì Trời Đất đều biết đó. Chư môn sanh nên ngăn ngừa vì cõi trần nầy là: Ái hà thiên xích lãng Sông ái-hà như làn nước vô hình khỏa vượt cao hơn ngàn thước, phủ nhận chư môn sanh, không định tâm khó mà vượt khỏi. Khổ hải vạn trùng ba Bể khổ nơi cõi trần nầy như biển rộng mênh-mông khỏa biết bao vạn lượn sóng trùng-dương, đang gặp trận cuồng phong xô đẩy làm cho chư môn sanh dấy loạn tinh thần nên bị sóng nhận nhồi bản thân lẫn tinh thần đều chìm đắm. Như thế, kiếp tạm nầy dù cho chư môn sanh tận hưởng mùi vinh hoa phú quí của đời cũng chưa vượt khỏi bể trần trong khi xao động. Thế rồi, ngày cổi bỏ xác phàm, hồn linh phải nương tựa vào đâu làm căn bản? Vậy môn sanh cần trau luyện tinh thần để ngày mai hậu làm một bút tích lưu đời. Như thế mới tròn câu thệ nguyện trước Ngọc-Đài khi hạ thế. Nay tả quyển BÌNH-MINH ĐỆ-TAM, Tôn-Sư nhắc lại những điều kết quả trao cho chư môn sanh ghi nhận để tránh khỏi sự muộn ăn-năn như trước kia nơi Nghiệt-Đài chối cải. Tiếp lịnh, Huệ-Pháp. Tôn-Sư ban điển lành chư đẳng chúng sanh, điển hồi Cực-Lạc. Thăng...
Văn-Phòng Đại-Đạo Ngọ thời, 6-8 Canh-Tuất (6-9-1970) Pháp Đàn: Huệ-Chiếu-Quang * Đồng Tử: Huệ-Pháp ____________ (Tái cầu:) HẢI-TRIỀU THÁNH-NHƠN — Tôn-Sư tái cơ truyền lịnh Huệ-Chiếu-Quang trấn chơn dương phù cho chơn đồng khai khẩu. Tiếp lịnh, Tôn-Sư điển hồi Thượng-giới. Thăng... (Tiếp điển:)
THÁI-Cực vị phân Đạo chuyển thành, THƯỢNG tiêu bất xuất thế phù sanh, ĐẠO trường lão ấu căn-cơ dưỡng, TỔ luyện đơn kim đắc thọ sanh. THÁI-THƯỢNG ĐẠO-TỔ — Tôn-Sư mừng chư môn đồ. Chư môn đồ an tọa nghe Tôn-Sư truyền lời diệu khuyết để cho chư môn đồ tri tường hầu cứu vãn tâm trung trong hồi giao động. Nay Tôn-Sư thọ lịnh DIÊU-TRÌ tả BÌNH-MINH ĐỆ TAM để ban hành ra cho chư môn đồ tu học tùy theo công quả mà tiến hóa. Đó là một viên linh đơn để hồi sinh chơn tánh của chư môn đồ đã sắp phai dần vì vật-dục.
Người thượng-đức không cần giữ đức, Bởi vì chưng vượt bực phàm nhơn, Vĩ danh đạo-đức lai huờn, Đức kia đã chọn trong cơn hành-tùng. Thượng-đức ấy tôn sùng Đại-Đạo, Ngũ đức nêu cải tạo chu toàn, Nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín ban, Tại NHO như thử con đàng trung-dung. Cần giải tỏa trừ hung khử bạo, Sát tâm vọng tữ đạo vô minh, Chu toàn ngũ giới duy tình, THÍCH nhi tác đức vô-hình từ-bi. Cần un-đúc hữu tri tánh mạng, Luyện Tiên-đơn căn bản Tiên-gia, Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ hòa, Tại ĐẠO nhu thử cảm là ứng thông. Ngũ đức ấy lảu thông đầy đủ, Dù hậu-thiên khốc dụ trần miền, Hậu-Thiên phản bổn Tiên-Thiên, Bổn lai ngũ đức huờn nguyên sáng lòa. Nên thượng-đức nào là chấp đức, Vì nêu cao vượt bực phi phàm, Hạ-đức còn nhiều hãm giam, Hạ-đức chấp đức, để làm bản nguyên. Cần chấp đức, để liền cải-hóa, Biết tội tình hối cả con tâm, Răn hình sát, tránh lỗi lầm, Lấy nhân đo lượng để tầm Phật Tiên. Răn xảo trá tâm hiền trọn nghĩa, Răn lòng tà chớ bịa dâm-ô, Đó là dụng lễ điểm tô, Thành danh Đại-Đạo môn đồ do đây. Răn tửu nhục đủ đầy lý-trí, Trí khôn ngoan thành ý cao siêu, Răn vọng ngữ, giữ luật điều, Gìn tâm giữ tính mục-tiêu nhơn loài. Cần tri thử bổn lai nhứt mạch, Nên chấp đức nhiệm-trách hạ từng, Chấp là giữ lấy huyền-ưng, Đức cao tồn tại nhơn quần đáng nêu. Nêu đạo-đức luật điều phóng tác, Cho vạn linh giải thoát mê đồ, Khinh thân trọng vật nông-nô, Răn lòng tham lạm khẩu đồ nguy nan. Triền-miên lại nào an oan-trái, Răn lòng tà tâm hoại thể thân, Đoạn như dục loạn-luân trần, Ấy là cấu tạo muôn cân tội tình. Răn tửu nhục tâm linh trí tuệ, Trí khôn ngoan là để tạo thân, Muốn cho vượt khỏi bể trần, Vẹn gìn đức tánh ân cần giồi trau. Bảo đức tánh khỏi vào lục súc, Giữ tâm chơn sở dục ư nhơn, Thành-tín tránh vướng gây hờn, Chánh tâm định ý phục huờn Tiên-bang. Nên tri thử hành-tàng chơn tánh, Cần ôn-nhuần để tránh đọa thân, Thọ giới sát, tất vô nhân, Mộc kia đã khuyết tinh-thần hại thay. Địa Đông-Phương Hữu-Tai, trần cầu, Tại Thiên Tuế-Tinh hậu bất an, Tại nhơn thọ thương đởm can, Cho nên bất sát an-nhàn điểm linh. Cần răn trộm ngục hình chi loại, Mất nghĩa kia cần phải gìn lòng, Khuyết kim bộ phận ngoài trong, Tại Thiên Thái-Bạch địa hồng Tây-Phương. Tại nhơn, tắc phế trường thọ hại, Răn tà dâm để hoại lễ nhà, Khuyết hỏa tắc rụi lòng ta, Tại Thiên Quýnh-Hoặc khó mà đặng an. Tại địa, thử Nam-phang tai hại, Tại nhơn thân tổn hại tâm trường, Bảo tồn tạo cảnh Thiên-Đường, Đừng cho di-dịch tâm trường kiệt hao. Giái tửu nhục đón rào trí tuệ, Phải khuyết thủy thân thể khô khan, Tại thiên, tinh-thần chẳng an, Tại địa, phương Bắc khó toàn nạn tai. Nơi nhơn thân càng ngày kiệt quệ, Thận bàng-quang ký tế thọ thương, Cần nên giữ vững lập trường, Thiên khuynh địa chích một đường vững yên. Vì xảo trá không nguyên chữ tín, Bị khuyết thổ thị tín nan thành, Tại thiên, trấn-tinh bất sanh, Tại địa, tắc trung-ương thành họa tai. Tại nhơn phẩm họa lai tỳ vị, Bảo toàn thân tri-kỷ vật nhơn, Châu nhi thiên địa tuần-huờn, Chúng sanh nhựt lộ luyện đơn kim thành. BÌNH-MINH chuyển hồi sanh đạo-lý, ĐỆ-TAM khai chung thỉ trọn đề, Nên gìn ngũ tặc chớ xê, Phát sanh nhịp sống dựa kề Tiên-bang. Tôn-Sư diễn tả đoạn nầy lưu lại cho chư môn đồ tri tầm hầu chỉnh đốn tâm trung những điều kém khuyết, để tu bổ cho nguồn linh-điển được đủ đầy hầu vượt qua luật tuần huờn cao vọi. Tôn-Sư ban ân lành. Thăng... Văn-Phòng Đại-Đạo Ngọ thời, 12-9 Canh-Tuất (11-10-1970) Pháp Đàn: Huệ-Chiếu-Quang * Đồng Tử: Huệ-Pháp ____________ HẢI-TRIỀU THÁNH-NHƠN — Tôn-Sư mừng chư hiền đồ. Giờ thọ sắc báo đàn tả Kinh, vậy Huệ-Chiếu hội Tam Thiên phù trấn nê-huờn cho chơn-đồng khai khẩu. Tiếp lịnh, Tôn-Sư điển hồi Tiên cảnh. Thăng... (Tiếp điển:)
TRỌNG Đạo tam-tùng luật chánh tông, NI truyền thường-ngũ chỉnh thuần phong, KHỔNG-môn tu học an thiên hạ, TỬ hậu lưu hành thế Việt đông. Tả bút khai thông qui củ lập, Kinh luân vạn quyển sử nhơn tông, BÌNH quang sinh lộ tầm chơn-lý, MINH triết Bồ-Tiên tạo đại-đồng. TRỌNG-NI PHU-TỬ — Nhà-Thầy mừng chư đồ đệ Tam-Kỳ hạ thế, chư đồ đệ an tọa nghe Nhà-Thầy khai truyền Đạo giáo. Nầy chư đồ đệ, một giáo-lý từ Trung-Cổ lưu tồn bởi Nho đồ từ ngàn xưa lưu lại do Nhà-Thầy sáng giáo, mục đích Nho-tông dụng cang-thường luân-lý để làm một lễ giáo cho chư đồ đệ ôn-nhuần hầu ngăn ngừa mối loạn tâm do lục-dục bộc hành tao loạn, sự trấn áp điều hỗn loạn nội tâm không thể lấy ví dụ bên ngoài mà điều khiển, đè nén được lòng sở dục của con người, khi bị tư-tưởng thu hút vào tâm trí. Thế nên dụng kỷ-luật tạo giác tri-kỷ, để làm một khuôn vàng thước ngọc đo lòng người và phân ranh giới, để làm một lằn gạch ngang của giới-hạn mà không phép được vượt qua lằn mức. Thế nên Nhà-Thầy dụng lễ; điều nầy là chỉ-nam khi khai tràng lập giáo. Sự ứng dụng rất hiệu lực trong khi giáo điều được tôn trọng vào buổi Trung-Nguơn mà điều phản ứng đã có trong khi Nhà-Thầy khai truyền Đạo-giáo. Đã trải qua bao thế hệ, tuy kim cổ bất đồng nhưng đã đạt được kỳ công còn lưu bao vết tích như hiện tại qui-nguyên nền Tam-Giáo, gom nhặt tinh-ba của nền cựu-giáo, xây thành một giáo-lý hỗn hợp, gây một tiếng sấm vang dội khắp loài người trên mặt đất, để rồi loài người tự đưa mắt nhìn vào nhiều khía cạnh, gây một hoài bảo âm-thầm vì đã kết thành liên-hệ, mãi tiếp tục suy tư khi ngó sâu vào chương trình danh hiệu. Sau cùng đã tổ hợp lại một giáo-lý trọng đại như đã có, gồm Tam-Giáo qui nguyên, Ngũ-Chi hiệp nhứt, không phân ranh Tôn-Giáo. Như thế, thuyết đại-đồng không cần phổ hóa mà nó đã tự phô bày trên một danh từ xuất hiện. Nay Nhà-Thầy thọ lịnh Diêu Cung hạ điển trần tả quyển BÌNH-MINH ĐỆÂ-TAM để diễn dụ lưu đề khải giáo triền miên còn lưu lại những thành quả trước kia cho hiện tình chư đồ đệ soi chung hầu tiếp tục khai thông nền Đại-Đạo, để lưu lại một ký ức ngàn thu bất diệt.
Ngự bút Thánh Nho-Tông chuyển thế, Dựng triều-nguơn hạ kế Thượng-Nguơn, Châu nhi phục thỉ lai huờn, Tinh vi bất diệt thâm sơn thủy hà. Nguồn Nho-Tông Trung-Hoa truyền bá, Gốc tinh thần giáo hóa ngũ-luân, Khắp Đông-Nam-Á nhơn quần, Trải qua giai đoạn tưng bừng truyền ban. NHÂN đầu đề an-bang tế-thế, Nhân ấy là dụng để trị nhơn, Nhân-ái đánh tạt gây hờn, Nhân từ đoạt giải tuần-huờn thể thân. NGHĨA giữ vẹn quân thần chi đạo, Nghĩa tương đồng đào tạo khuôn viên, Nghĩa là căn-bản mối giềng, Nghĩa người quân tử nằm yên nơi lòng. LỄ ngăn ngừa đục trong phát động, Lễ bày khai hình bóng đẹp xinh, Lễ là ngăn cách đời tình, Lễ đây áp dụng luật hình khỏi mang. TRÍ tinh xảo nên toan liệu định, Trí thanh nhàn tu chỉnh tâm trung, Trí tri là kiếm thư hùng, Trí mưu thông thạo bất tùng dục-tâm. TÍN nguồn cội cao thâm đức độ, Tín gầy nên toán số tương lai, Tín trung nương ngự hằng ngày, Tín là lập vị sáng khai đại-đồng. Bởi ngũ-đức gồm trong luật giáo, Cùng ngũ-luân hoài bão danh từ, Ngũ-giới nào khác đây ư, Hòa đồng một thể tàng thư ghi vào. Khai hạnh đường đề trao bí quyết, Bồ-Tiên-Trang mài miệt giáo truyền, Lưu tồn vạn đợi trần miền, Hạ-Nguơn chuyển Thượng triết hiền trị an. Còn lưu lại nơi trang sử đạo, Tứ Phối thập triết giáo Nho-Tông, Thất-Thập-Nhị Hiền tường thông, Đây là bút tích Nho-Tông lưu truyền. Tả Bình-Minh đôi thiên bút ký, Cần lưu tâm chung thỉ một đề, Vẹn gìn qui củ đã phê, Thánh-nhơn hiền-triết lưu hề kết tinh. Họ Chiêm-Đài, Việt-Minh danh tự, Người Võ-Thành, tên chữ Hàm-Ân, Tử-Võ học thức hiếu thân, Khai minh lý-trí trong phần đệ môn. Bí-Bất-Tề danh ngôn Tử-Tiện, Người nước Lỗ, xuất hiện hiền nhân, Môn đồ tâm tánh ân cần, Hoát khai đạo-lý về phần kinh luân. Nguyên-Hiếu-Phục nhơn quần đại chúng, Tự Tử-Tư tác dụng đạo luân, Người Tống quốc, tiến không ngừng, Lập thành thể chế triều dâng sửa đời. Công-Dã-Trường người thời Lỗ-quốc, Tự Tử-Trường, danh thật Nhĩ-Thinh, Thường văn bá điểu chi thinh, Thế nên cam chịu luật hình đã qua. Nam-Cung-Hoát cũng là Lỗ-quốc, Tự Tử-Dung gan mật can-trường, Thọ mạng thuyết giáo hạnh đường, Kỳ thời bất đạt khoa trường hồi an. Tiếp Tử-Sài luận bàn nhơn nghĩa, Tự Tử-Cao gieo tỉa ái hòa, Lòng hằng nhân-ái, ái-tha, Giải bày luân lý nhơn hòa địa khai. Sang nhơn thể sắp bày ngọn bút, Tất-Điệu-Khai tri túc thời hành, Danh từ Tử-Nhược lưu danh, Người trong nước Thái thọ sanh học tài. Phàn-Tu-Học thiên tài danh đạo, Lập công danh đào tạo Tử-Trì, Người Lỗ-quốc ở kinh kỳ, Thông-minh trí-tuệ, củ-qui điều hòa. Công-Tây-Xích chiếm khoa lương thiện, Bậc tài nhơn tri kiến Tử-Huê, Người nước Lỗ, lưu bút đề, Mở mang điền địa, khai quê tỉnh điền. Tử-Nhược vốn ngang-hiên lý luận, Tự Tử-Hữu giáo huấn nghiêm-trang, Người trong Lỗ-quốc đồng bang, Công trình khai giảng chu toàn giáo dân. Trần-Can đạt tinh thần võ dõng, Tự Tử-Can phát động oai nghi, Tử-Cầm cũng một danh thì, Người sanh Trần-quốc đạt thì tài thiên. Lương-Chuyển vốn thâm-uyên đạo-lý, Tự Tử-Lỗ tâm trí điều hòa, Người nước Lỗ, tánh vị tha, Giáo dân vi luật điều hòa trị an. Công-Triết-Ai vinh quang khí tượng, Tự Quý-Trầm trưởng dưỡng tinh thần, Người Vệ-quốc, bảo toàn thân, Trau-giồi kinh luật an thần định tâm. Thương-Cụ vốn tri tầm giáo-lý, Tự Tử-Mộc khắc kỷ truyền ban, Người Lỗ-quốc thị cơ-hàn, Tâm linh đạt lộ giáo ban lộ hành. Nhiễm-Nhu-Hữu tâm thành huấn giáo, Tự Tử-Lỗ hoài bão tâm sanh, Người nước Lỗ, tánh điều hành, An dân trị quốc ngọn ngành tóm thâu. Nhan-Tân-Phục tước hầu đồng vị, Tự Tử-Liễu thánh chỉ không tuân, Người nước Lỗ, giáo nhơn quần, An-cư lạc-nghiệp triều thần hoan nghinh. Bá-Kiện-Tại danh thinh Lỗ-quốc, Tự Tử-Tích bẩm-chất thông-minh, Lập thành danh tánh pháp đình, Khai thông luật pháp phạt hình trị nhơn. Tào-Ức-Đạt tuần huờn ôn nhiệt, Tự Tử-Tuân năng thuyết năng hành, Người nước Thái, rất tài danh, Mở mang kinh tế thật hành tế dân. Nhiễm-Quý dụng tâm nhân đại để, Tự Tử-Sản hiếu đễ tuân hành, Người Lỗ-quốc sẵn tài danh, Đồng chung chí hướng thật hành như trên. Công-Tôn-Long tuổi tên sáng lạn, Tự Tử-Thạch treo bảng đạt hiền, Người Vệ-quốc, đủ tư thiên, Khai trường luân-lý phục yên gia tề. Tất-Điêu-Xải kỳ huê dị thảo, Tự Tử-Liêm đào tạo mộc danh, Đồng tên Tác-Xải tri hành, Người trong Lỗ-quốc đạt thành công cao. Tần-Thương-Dược tâm bào sở nguyện, Tự Tử-Thương ý kiến thông minh, Người Lỗ-quốc tiếng danh thinh, Hoát khai nhơn đạo dân sinh giải bày. Tất-Điêu-Đồ đức tài trau luyện, Tự Tử-Hữu học tiến-tăng thành, Đồng chung tên tộc tri-hành, Tử-Văn nước Lỗ, kỳ danh sĩ tài. Nhan-Cao-Trí đức dày công đắc, Tự Tử-Kiều danh khắc Lỗ nhơn, Triết văn hướng đạo lai huờn, Công danh gió tạt khê sơn ẩn mình. Thương-Đơn-Ngộ chơn tình bản tánh, Tự Tử-Hữu kiểm hạnh đoan trang, Lỗ-quốc Tử-Quý danh bàn, Tuổi tên giáo dục an-bang vận nhà. Nhương-Tứ-Xích san-hà chí hướng, Tự Tử-Đồ trưởng dưỡng thi thơ, Quán thông tri lược tri cơ, Lập thành quốc chánh phụng thờ tổ-tiên. Nhậm-Tất-Tề danh hiền chói rỡ, Tự Tử-Tuyển nước Sở hàn lâm, Văn chương tri túc trí tầm, Chuyển thành thế hệ bao năm nắn nhồi. Thạch-Tác-Xúc tài bồi hạnh đức, Tự Tử-Minh tri thức khuôn viên, Tần quốc sanh tại tâm hiền, Lập thành chơn thể tự nhiên giáo điều. Công-Thương-Nhụ đề tiêu thẳng thắn, Tự Tử-Chánh thọ lãnh danh truyền, Nước Trần sắp đặt chỉnh yên, Vung tay xây đắp mối giềng trị dân. Công-Hạ-Cụ tinh thần thiết thạch, Tự Tử-Thừa lo trách-nhiệm hành, Lỗ quốc cư ngụ thoát sanh, Lập thành quốc thể thừa hành căn cơ. Công-Kiên-Định tôn thờ đạo sự, Tự Tử-Trung gia ngữ Tác-Kiến, Đồng danh Tử-Trọng danh hiền, Là người nước Lỗ lưu truyền Thánh-nhơn. Hậu-Sứ lập phục huờn quí tế, Tự Tử-Lý gia thế an nhiên, Thạch-Sứ danh tánh Tự-Kiên, Người sanh Tề-quốc, tâm hiền hoát khai. Khiêu-Đơn dụng đức tài phổ huấn, Tự Tử-Gia ứng dụng từ tâm, Lỗ-quốc danh tánh đắc tầm, Sống trong nội địa chú chăm giảng điều. Hề-Duy-Tế mộ triêu phấn khởi, Tự Tử-Triết danh lợi vô thành, Khổng môn cao đệ lưu danh, Hề-Duy phục tánh đạt thành giáo dân. Hãn-Phục-Hắc kỳ thân danh tướng, Tự Tử-Sách độ lượng khoan dung, Nước Lỗ tộc lược tương phùng, Danh vang Trung-Cổ thính tùng đạo môn. Diên-Tổ-Nhứt ôn-tồn lý trí, Tự Tử-Giá đạo lý uyên thâm, Lỗ-quốc phục vụ chú chăm, Giải bày chánh pháp tri tầm chánh chơn. Vinh-Sớ-Học lai huờn kim cổ, Tự Tử-Kỳ quốc Lỗ dị nhơn, Tinh thần cổ võ lai huờn, Hình dung hải đảo khê sơn chí đồng. Tần-Tổ học lảu thông luân-lý, Tự Tử-Thương tri kỷ tri nhơn, Người nước Tần, giáo lý chơn, Hướng đường đạo hạnh phục huờn nhơn dân. Tả-Nhơn-Sính kỳ thân lập đức, Tự Tử-Hành tâm lực thông minh, Người nước Lỗ, học đăng trình, Khai thông tư tưởng lý tình cao siêu. Câu-Tỉnh-Cương luật điều tu chỉnh, Tự Tử-Cương bản tính trầm ngâm, Người nước Vệ, chí quyết tâm, Giải bày lý luận sưu tầm bí khoa. Trịnh-Quốc-Giảng dung hòa nhơn đạo, Tự Tử-Đồ đào tạo nhơn dân, Người nước Lỗ, cô-độc thân, Lập thành danh thế, ấy phần sứ quân. Công-Tổ-Cú tâm thuần ý đạt, Tự Tử-Giá, hoạt bát ngũ luân, Người Lỗ quốc, trọng đức ân, Chơn tâm hướng đạo quần thần tế an. Nguyên-Khanh-Trí an-bang tế-thế, Tự Tử-Tịch dụng kế giáo dân, Người Lỗ quốc, thọ quân ân, Giáo truyền ngôn hạnh, nhơn thần tín trung. Huyện-Thành-Thiết trung-dung giáo hóa, Tự Tử-Hoành chí cả tài danh, Lỗ quốc giáo dục lập thành, Khai thông tư tưởng, tượng thành cư an. Liêm-Khiết-Tạo tâm từ tế thế, Tự Tử-Tào nước Vệ hóa nhơn, Cổ-sử tu chỉnh lai huờn, Giáo điều khai thác hòa nhơn đồng hòa. Yến-Cấp-Tánh kỳ hoa liên thạch, Tự Tử-Tu thể phách ôn nhu, Người nước Tề, khắp châu du, Đưa đường giáo thuyết giải mù quốc dân. Thục-Thân-Hội hoan-hân tác dụng, Tự Tử-Kỳ lưu dụng tri cơ, Lỗ quốc đạo lý tôn thờ, Khai thông trí tuệ dâng thơ tiến hành. Nhan-Chi-Bộc công danh đạo lý, Tự Tử-Thục ý chí lãm thông, Lỗ quốc hòa nhịp sống đồng, Tinh thần thiết thạch quận công giáo điều. Qui-Tốn-Luật hoàng triều tu-chỉnh, Tự Tử-Liễm tùng thính ban hành, Người Lỗ quốc đã trứ danh, Lập thành quốc thể thừa hành nhơn-luân. Nhạc-Quy-Đáo nhơn quần khai hóa, Tự Tử-Thinh thiên hạ lưu tâm, Người nước Lỗ, luật cao thâm, Hân-hoan đạo-lý tri tầm giáo dân. Công-Tây-Dư thọ ân quốc thể, Tự Tử-Thương tế-thế an-bang, Lỗ quốc phụng sự chu toàn, Giáo dân chi đạo đặt ban sứ thần. Tịch-Khắc-Tín thiên thần hạ thế, Tự Thiết-Chi, nước Vệ phò trì, Khai thông ngũ đạo hoàng-huy, Lập thành kỷ luật trong khi giáo truyền. Khổng-Trung bực nhơn hiền gương sĩ, Tự Tử-Mậu, đạo-lý cao siêu, Dòng Khổng-môn nắm luật điều, Ngũ-luân thông suốt mục tiêu dung hòa. Công-Tây-Tạng ái-tha ái-vật, Tự Tử-Thượng tánh chất thông minh, Người nước Lỗ, sửa luật hình, Tạo cho dân chúng hồi minh giáo điều. Bộ-Thúc-Kiệt đình triều trọng dụng, Tự Tử-Sa hợp chúng tinh vi, Nước Tề mở rộng hội thi, Chọn tài trạch đức đồng qui chánh triều. Thi-Chi-Thường đề nêu nhơn đạo, Tự Tử-Thường cấu tạo dân sanh, Người nước Lỗ, lập thân danh, Lưu truyền hậu thế lập thành căn nguyên. Tần-Phi-Hội tánh hiền tiêu chuẩn, Tự Tử-Chi xây dựng đền môn, Giáo dân cơ thể bảo tồn, Luật điều khai thác, ngục môn khai thành. Nhan-Phái, lập kỳ danh bản lịnh, Tự Tử-Thinh luật định hành tàng, Lỗ quốc phẩm lộc cấp ban, Dung hòa luật cũ, chỉnh trang quốc hồn. Cần-Trương, tánh ôn tồn chơn thật, Dòng hiếu trung bẩm chất thông minh, Cán cân công luật giữ gìn, Phát sanh Tần quốc danh thinh sáng ngời. Thân-Trướng người sanh đời mạt hậu, Học văn chương hiểu thấu luật sanh, Tự Hoài-Sanh học tri hành, Khai thông quốc thái, lập thành khuôn viên. Du-Mã-Thi, Sơn-Điền danh hiệu, Lập giáo điều tiêu biểu hiền nhân, Tề quốc học chí hiếu thân, Lập thành cổ miếu quân thần định an. Tôn-Nguyên, tự Tử-Toàn học đạo, Lòng vô tư cải tạo khuôn viên, Khai thông quốc vận đoàn viên, Giáo dân vi nghiệp lưu truyền phân minh. Trịnh-Cốc đạt lý tình giáo dục, Tự Tử-Cầu tri túc thừa hành, Người nước Thái đủ tài danh, Kiên tâm nhẫn chí chơn thành phò quân. Hà-Tùng-Như tâm thuần vô ngã, Tự Hoài-Âm hành giả vị dân, Người nước Hàn, đủ tâm nhân, Xây thành tâm lý, thôn lân kỉnh vì. Tôn-Hạ-Võ kỳ thi đạt lộ, Tự Tử-Vân kim cổ suy tư, Người Vệ quốc, chí thiện từ, Chuyển luân lân quốc thiên-thư luật điều. Tây-Tôn-Đạo đề tiêu căn bản, Tự Hoài-Nhơn cáng đáng phân minh, Người Sở quốc, tánh quang minh, Phát huy định chế luật hình chánh công. Tô-Hồ-Ân tinh thông đạo lý, Tự Tử-Cầu tâm trí điều hòa, Người nước Vệ, văn toàn khoa, Giáo dân hiếu đạo năm ba chơn truyền. Hồ-Mông, thọ ân quyền phẩm tột, Tự Cao-Văn rường cột Nho-tông, Người Vệ quốc, chí lãm thông, Phát huy định chế nối dòng ngũ kinh. Trọng-Dụng, đạt danh thinh nước Lỗ, Tự Tử-Cường, tướng hổ, tâm từ, Trí thông minh, học hiểu dư, Quyết đường khai thác, thiên-thư sẵn sàng. Trọng-Nghĩa tánh trực-cang bất khuất, Tự Dân-Sanh hình luật công đường, Chế tài phong-hóa kỷ-cương, Giáo điều chánh pháp kỳ phương chỉnh đời. Châu-Bửu-Chế chẳng dời nguy khổn, Tự Hà-Xa căn bổn lưu truyền, Người Uông quốc, luận đạo Tiên, Khai thông dân ý gieo truyền thế nhân. Tiêu-Chánh trọng tinh thần vi thiện, Tự Hiếu-Thân chuyên luyện tâm từ, Người Tần quốc, sanh an cư, Thánh tâm ứng hóa thiên-tư nghiệp đồ. Nhà-Thầy nhắc điểm tô đồ đệ, Lưu lại đời hậu thế soi gương, Sanh tồn vạn đợi trần dương, Tam-Kỳ Đại-Đạo Thánh đường nhuần ôn. Bao nghìn năm lưu tồn sử tích, Bởi thế trần áp dịch đổi thay, Ghi vào bản chánh lạc sai, Nhà-Thầy chỉnh lại hậu lai lưu truyền. Kinh BÌNH-MINH đạo Tiên truyền bá, Dụng bút thần tá giả vi chơn, Hiếu trung tín nghĩa keo sơn, Tồn tâm dưỡng tánh phục huờn bổn nguyên.
Nhà-Thầy ban ân chư đồ-đệ. Thăng...
Văn-Phòng Đại-Đạo Đàn Ngọ thời, 11-02 Tân-Hợi (6-3-1971) Pháp Đàn: Ngọc-Như-Liên * Đồng Tử: Huỳnh-Hoa ____________
HẢI Bắc sóng nhồi dội tiếng vang, TRIỀU Nam mây phủ khắp cung hoàng, THÁNH tâm lọc lựa thanh phân trược, NHƠN đạo thừa hành lịnh sắc ban. HẢI-TRIỀU THÁNH-NHƠN — Tôn-Sư mừng chư môn đồ. Giờ linh, Tôn-Sư thọ lịnh báo đàn. Vậy chư hiền đồ thành tâm tiếp lịnh. Tôn-Sư điển hồi Tiên cảnh. Thăng... (Tiếp điển:)
Nét mực còn ghi để sám kinh, Bút vàng hạ thế tả Bình-Minh, TÂY miền thế kỷ còn bia tạc, AN phận tá danh giác thế tình. BỒ đảo dưỡng thần, thân bất hoại, TÁT tâm tịnh tọa ngự đài linh, Lưu hành thất ức tùng thiên luật, Đề bảng khai thông chuyển Đạo Huỳnh. TÂY-AN BỒ-TÁT — Bổn-Sư mừng chư Thiên-mạng đồ đệ tông môn liên phái ứng hầu, Bổn-Sư miễn lễ. Kỳ Hạ-Nguơn tái tạo, đạo-pháp trùng hưng, hạnh ngộ thay! Thiên-Khai Huỳnh-Đạo, Đức CHÍ-TÔN hoát khai đường sanh lộ, mở lối cho chúng sanh từ bao thế kỷ liên tiếp với nhiều danh từ di dịch. Nhưng tựu trung là truyền tin NGỌC-ĐẾ lâm phàm tá danh CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ hầu tập trung những tinh ba của các nền Tam-Giáo đương kim lập thành vạn thù qui nhứt. Nay chư đồ đệ đã đúng thời kỳ giao hợp, Bổn-Sư thọ lịnh MẪU-HOÀNG hạ trần tả quyển BÌNH-MINH ĐỆ TAM hầu nêu bút tích từ xưa đến nay để lập thành một tinh thần bất diệt. Đó là cơ đại-đồng nhơn-loại. Đây nghe Bổn-Sư minh giải hai chữ “Đại-Đồng” cho tông đồ xác nhận: - Đây, Bổn-Sư quày lại quãng đường xa thẳm bao ngàn năm lập giáo. Sự sai biệt giữa tông-môn là nơi xuất xứ của Phật-Tổ giáng sanh, như qua bao thời ngã gục Ấn Hồi tương sát. Đó là một hiểm họa hệ phái phân tranh, làm cho giọt máu từ-bi từ từ chảy ra vô ý nghĩa. - Phần khác, sự riêng biệt giữa tông môn giáo lý Phật môn thành phần Cổ-Sơn Nam-Bắc; như vậy lấy đâu trung tâm ấn-tượng để tạo gầy một mục tiêu cho chơn truyền khỏi điều di-dịch. - Phần khác, sự riêng biệt giữa các tông đồ Thánh-Địa, truyền khai hai ngàn năm hầu mãn, biết bao dòng Thánh hệ, diệt tánh cải danh, đó là liên hệ nhơn-loại với ngoại chướng nội phân mà lịch sử đã đề ghi rành rạnh. - Phần khác, nền đạo nơi Nam triều chánh thống giáo lý nhập xứ truyền sang, nhồi luyện tinh thần dân tộc phải theo chiều hướng, để hưởng nhờ ân mưa móc sống còn yên phận. Vì thế, từ tư-tưởng, tinh-thần đều bị nhồi luyện làm cho tinh-thần tộc tính phai dần, mãi hướng theo đà vinh hoa danh-dự gắn vào mà quên đi phần cổ-truyền tộc tính. Vận quốc đang suy đồi, biết bao vĩ-nhân đang vùi ẩn dạng, cùng bao xuất xứ lộ hình, tương kế tựu kế, biết bao thay hình đổi dạng, miễn sao tạo gầy căn-cơ từ-thiện, hầu huờn phục lại dân-tộc tánh, dù cho bao căn-cơ tạo nên người, ngoại thể nội thân đều khác biệt. “Hoàng-Thiên bất phụ, xuất thế Kỳ-Hương” - Vì sự tiến hóa mà bốn chữ “Bửu-Sơn Kỳ-Hương” hay “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” từ đâu mà hoàn thành danh chánh. Thời gian thay đổi qua màn lớp danh từ, trải bao thời kỳ ngoài thế-kỷ, mãi thay thân rọi đuốc chờ đến ngày ánh huyền-linh chiếu rọi khắp Nam-Bang. - Phần khác, sự thay thân của Đại-Giác Phú-Sổ đương kim sáng khai Hòa-Hảo Tây miền, lúc phiếm diện tàng thân cũng chuyển qua tam phân tứ tượng. - Phần khác, Đạo Cao-Đài xuất xứ Nam-bang, xuất hiện huyền-linh, không dụng tay phàm điều khiển, một nền Đạo tân kỳ với danh từ trọng đại để thống nhứt Tam-Giáo Ngũ-Chi, Đông Tây phối hợp, hợp thành duy nhứt tá danh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hầu lập nên vạn thù qui nhứt bổn. Vì thế, từ hình thức lẫn nội dung của đạo nầy có phần đầy đủ, trên tôn nghiêm với danh từ, bên ngoài Tam-Trấn Oai-Nghiêm: Thánh: Quan-Vân-Trường tượng trưng công-bình cang-trực. Phật: Quán-Thế-Âm tượng trưng tiết-liệt từ-bi. Tiên: Thái-Bạch Kim-Tinh phần Tiên-Đạo dụng bác-ái, nắm luật Thiên-điều giáo đạo kỳ ba. Nhìn rộng sâu vào nội địa khắp Nam-bang vẫn còn bao danh từ phân biệt rõ ràng, nhận thức sự tôn thờ duy nhứt vì “Hoàng-Thiên hữu nhãn”. Như vậy đã vượt ngoài vòng đạo-pháp, kỳ Hạ-Nguơn tái tạo, phản hậu vi tiền, nên bậc CHÍ-TÔN phụ cận, để giữ mục tiêu căn bản cho Tam-Giáo Ngũ-Chi hạ trần. Ngài gom lại thành một, lập thành ĐẠI-ĐẠO, không phân biệt Thánh-Chúa, Phật-môn, Ấn-đồ, Tịnh-sĩ. Đó là dụng ý Đức CHÍ-TÔN lập thành nềnĐẠI-ĐẠO gồm giáo lý Đông Tây, phối hợp gọi là cơ đại-đồng nhơn-loại. Đó là một vị linh đơn kiết tụ đã có từ trước, Đông Tây phân chất, đơn phương áp dụng, đến nay kim cổ Đông Tây hòa hợp chất tánh dược để tạo thành viên linh đơn trị bịnh cho chúng sanh trong thời mạt pháp. Vì hiện nay chúng sanh chỉ nhìn vào và tiến theo con đường tiêu diệt. Nay Bổn-Sư mô tả bao thời kỳ lập giáo cho chư Tông đồ Liên-phái Bửu-Sơn cần lưu ý, vì lời nguyện tấu đến Ngọc-Kinh nên Bổn-Sư hạ trần minh giải. Nay đã đến lúc nhơn hòa địa lợi nên mọi hình thức rất thích hợp. Vậy chư tông-đồ cần gìn giữ cơ đồ đạo-pháp.
Đời đã chuyển, BÌNH-MINH xuất hiện, Đạo khai thông tân-tiến thượng đời, Ai qua kiếp số lò trời, Những người chiến sĩ trong thời Đạo khai. Nhìn viễn ảnh niên lai sẽ thấy, Chung quanh mình cạm bẫy bủa giăng, Giải ra bốn mối nợ hằng, Thước khuôn đã vạch mức lằn đòn cân. Tá trần gian nắm cân lường đấu, Điển Tiên-Thiên rọi thấu trần miền, Hình dung sắp lại mối giềng, Tầm chơn tu luyện gieo truyền đó đây. Luật tuần-huờn trở xây như chóng, Chạy theo hình là bóng nào rời, Con đường Đại-Đạo buồm khơi, Xuôi dòng nước lộn đò Trời cứu nhơn. Nhìn viễn ảnh Tòng-Sơn xuất hiện, Đoàn-Minh-Huyên vận chuyển giác linh, Ngược dòng một chiếc thuyền tình, Trà-Bư thẳng lối nhơn tình Thạnh-Trung. Lòng bác-ái vô cùng tế thế, Vì muội mê tầm kế bôi danh, Âm mưu sát hại sao thành, Sứ Trời thọ mạng, nào sanh tử gì. Muốn tránh họa lây thì cho thế, Lập Phật đường dụng kế tu trì, Bá tánh Bửu-Sơn quy y, Rạnh đề tứ tự vậy thì màu son. Nay bút tích ngòi son Thầy điểm, Tô nhãn thiên vào hiện trung ương, Tùy theo hình thức tri tường, Hòa đồng liên phái lập trường phân minh. Kìa bút tích chạm hình khắc cốt, Nào Thới-Sơn rường cột Nhà-Bàn, Trần điều một tấm vẻ-vang, Thay hình đổi dạng nào tàng lòng ta. Phận truyền bá nơi tòa Bạch-Ngọc, Tá phàm gian lừa lọc nguyên căn, Dù cho gặp cảnh trầm thăng, Kiếp đời nào vẹn tợ trăng khuyết tròn. Lời bạch tấu ngòi son lưu lại, Cho Hòa-Đồng Liên-Phái ứng hành, Hòa-đồng nhựa sống nhơn sanh, Xây nền đắp móng lập thành khuôn viên. Gìn căn bản Tây miền lưu tích, Mãi truyền ra lời hịch tựa đề, Bá gia tùng đạo trọng thề, Giáo điều nguyên tắc tựa kề Bửu-Sơn. Ngoài trăm năm tiếng đờn khoan nhặt, Ghi nơi lòng gieo rắc bá gia, Giờ đây huynh đệ thuận hòa, Lập thành liên phái Bửu-Tòa chỉnh trang. Thọ sứ mạng MẪU-HOÀNG chuyển bút, Tả BÌNH-MINH trong lúc khai thông, Con đường đạo-pháp đại-đồng, Tinh thần nhứt bổn Sơn-Tòng Bửu-Sơn. Xây Thánh-Đức phục huờn Đại-Đạo, Gom vạn thù cổi tháo trầm luân, Móng nền chờ đợi chín từng, Sắc truyền hạ thế hợp quần nữ Tiên. Ân tái tạo kỉnh Thiên hành đạo, Thứ nhứt là tùng giáo Đạo Trời, Tế thần linh, ấy thuận Trời, Hai là lễ tạ Đất Trời chí linh. Ba phụng sự thâm tình thất tổ, Dụng hiếu nhà tế độ ngoại môn, Bốn là trau sửa chơn-hồn, Song thân cấu tạo lưu tồn mẹ cha. Năm cụ pháp đó là triêu lạc, Tu gìn lòng chớ bạt lối xiêu, Sáu là sư-phụ đề nêu, Tuân hành chánh pháp luật điều Tôn-Sư. Bảy chánh nghĩa tâm từ huynh đệ, Tình cốt nhục như thể tay chân, Tám là dụng nghĩa kim thân, Đó là nha-trảo tinh-thần thương yêu. Chín căn bản luật điều hòa thuận, Tình chôn nhau cắt rún một thân, Mười là phụ cận ân cần, Phần hương ngoại thể tình thân một nhà. Thập giới lo kỳ-ba tu chỉnh, Điển linh-quang Thầy định giờ đây, Hạ-Ngươn chuyển Thượng bút nầy, Xây nền Thánh-Đức Đông Tây một nguồn. Bửu-Sơn kỳ tiên-phuông tiền-đạo, Lập thành hình phục đáo căn-cơ, Thiên-điều luật định đồ-thơ, Lập thành nhứt mạch tình sơ đạt thành. Xây Thánh-Đức tồn sanh bổn thiện, Lòng hy sinh như biển Bình-Dương, Giờ đây vạch vẽ con đường, Tu tề trị loạn dọn đường Phật lai. Luật căn bản hoát khai từ thiện, Tế đời nguy vận chuyển tâm tư, Tình đời giục tốc tất hư, Đạo tình thắm đậm thuyền từ cứu nhân. Gom mật truyền đời tân xây dựng, Lập tam-đài tiêu chuẩn Tây-An, Truyền tin thế sự bước sang, Trăm năm lưu lại sám vàng còn ghi. Chuyển bao kiếp vậy thì một điển, Phật Thánh Tiên xuất hiện phàm thân, Thưởng răn ghi để tại trần, Con đường hiếu nghĩa ân-cần lời khuyên. Ân sư-phụ mối giềng đạo cả, Ân dựng truyền vàng đá nào phai, Ân nhà nợ nước tròn hai, Ân đời đền đáp miệt mài tâm tu. Hiếu đạo trọn lao-cù sanh-hóa, Hiếu dưỡng dục chi sá mòn sai, Hiếu đành nhỏ giọt tương lai, Hiếu măng chớm nở râu mày chí kiên. Nghĩa tôn trọng lưu truyền cao quí, Nghĩa tử-quân chung-thỉ một màu, Nghĩa là chí-sĩ thanh cao, Nghĩa đồng sanh tử ai-đào vẻ-vang. Tình nhơn loại muôn ngàn giá đẹp, Tình đệ huynh đanh-thép nào so, Tình đời, đạo hóa chung lò, Tình sâu cực phẩm thơm-tho danh hiền. Lưu bút ký trần miền bá tánh, Truyền Bình-Minh thọ lãnh vai tuồng, Thành tâm từ thiện một khuôn, Tu là nỗ-lực, ấy nguồn sám kinh. Nhìn bá tánh nhơn tình xây dựng, Nào nhơn phi Nghiêu Thuấn hậu tiền, Sám còn lưu lại trần miền, Bản năng tu chỉnh mối giềng lạc sai. Cơ đại-đồng sắp bày rộng mở, Tình cốt nhục đành gỡ nợ ân, Chia cơm xẻ áo nợ trần, Thuyền từ một chiếc thẳng lần Nam Thiên. Hòa chung nhịp hậu tiền Đại-Đạo, Hiệp chung tay khải-giáo tông môn, Nam-bang thọ sắc bảo tồn, Kỳ danh bất diệt, CHÍ-TÔN chủ quyền. Bửu-linh-kỳ thế thiên hành hóa, Sơn thần xây tảng đá đầu tiên, Cao-Minh xuất hiện Hoàng-Thiên, Đài-Cao tân pháp mối giềng căn cơ. Qui Thánh-thể thiên-thơ tiền định, Truyền Bình-Minh thọ lịnh triều môn, Quyết tâm quyết chí bảo tồn, Thể hình một bóng CHÍ-TÔN luật điều. Chuyển bao kiếp mục tiêu giải khổ, Dụng nhơn tình tế độ lòng nhơn, Bình-Minh xây đắp phục huờn, Ngũ thập thất đáo Trung-Nguơn du hành. Lưu cẩm nang tồn sanh bất diệt, Sanh tại thổ, tử diệt, thổ qui, Kỳ-Ba Đại-Đạo Tam-Kỳ, Giáo dân Nam-Thiệm hồi qui chánh truyền.
Nền Đạo-pháp chuyển xây truyền sanh chúng, Cuối Hạ-Nguơn sử dụng địa hình khai, Tát đìa Nghiêu chưa cạn lại than dài, Kìa ruộng Thuấn đang cày sao lại ngán? Ngoài trăm năm Bửu-Sơn còn đậm bảng, Bao xác phàm thay dạng giải trần mê, Khóc rồi cười, xem lại cẩm nang đề, Cười rồi khóc, trần mê cần tu học. Mùi ngon ngọt thế phù câu ngạnh móc, Phật dạy đời lừa lọc dấu chơn đi, Cha dắt dìu muôn thuở lắm lôi trì, Thầy cứu thế hồi qui vi Thượng-Cổ. Kìa hướng Bắc chòm sao đẩu tinh đà ứng lộ, Xẹt vào Nam khắp chỗ ánh hào quang, Chiếu tường-vân ngũ-sắc khắp Nam-bang, Bừng giấc mộng huy-hoàng cơn ảo-ảnh. Nhìn rộng khắp môn-đồ trong bá tánh, Hòa tâm tư hưởng cảnh Thuấn Nghiêu thiên, Tả BÌNH-MINH thất ức đắc lịnh truyền, ĐỆ-TAM quyển lời Tiên ghi bia tạc.
Bổn-Sư ban ân lành chung. Bổn-Sư điển hồi Tiên cảnh. Thăng...
Văn-Phòng Đại-Đạo Đàn Ngọ thời, 15-05 Tân-Hợi (07-06-1971) Pháp Đàn: Ngọc-Như-Liên * Đồng Tử: Huỳnh-Hoa ___________ (Tiếp điển:)
ĐÀO lý đua nhau phúng nhụy đầy, HOA đơm tươi thắm khắp nhành cây, THÁNH nương ngự bút đề văn áng, MẪU thọ Diêu-Cung hạ sắc nầy. ĐÀO-HOA THÁNH-MẪU — Tôn-Sư mừng chung chư môn đồ, an tọa nghe Tôn-Sư truyền bút. Nầy chư môn đồ, sự mô tả cảnh thế phù dưới ngọn bút thần do điển Tiên-Thiên vô hình vận chuyển. Một khung cảnh bao bọc bởi bầu trời đẹp đẽ, biết bao lằn tia xẹt của lằn sao chớp nhoáng. Với khung cảnh của thiên-nhiên định sẵn công bình, vô-tư vĩnh-cửu, giữa bầu trời bao chòm mây lơ lửng kiết tụ liên vầng, đó là luật tự nhiên khi lu khi mờ, khi tụ khi tan, khi mờ ám, cơn xuất hiện, khi biến đổi, lúc bình minh thanh bạch. Thử hỏi cảnh không không như thế cần lưu ý tri tầm nguyên lý. Đó là ngu ý của ta hầu đạt được sự sống trong cảnh hiện tại. Luật tuần-huờn đã ghi: cuối Hạ-Nguơn chuyển sang đời Thượng-Nguơn xây nền Thánh-Đức; để tạo gầy cơ cấu cho chư môn đồ với một dung nhan đầy quyến rủ. Dung nhan đó là khoác cân-y màu thanh bạch để tượng trưng cho đóa phẩm từ Cực-Lạc hạ xuống trần. Vậy chư môn đồ nên hồi tưởng lại lúc ở non Bồng Tiên cảnh. Nay Tôn-Sư thọ lịnh DIÊU-TRÌ lưu lại quyển BÌNH-MINH ĐỆ-TAM để hướng dẫn chư môn đồ diệt trừ bản ngã tư riêng để phản hồi nơi cựu vị.
Đào là giống hoa hiền rực-rỡ, Nơi thế phù nhụy nở kết tinh, Hoa kia khoe sắc vươn mình, Khi tàn lưu lại, kết tinh những gì? Nên nhớ lấy thời kỳ phản bổn, Nhắc môn đồ nơi chốn non Tiên, Đài-Cao xuất hiện trần miền, Như hoa kết quả hồi Tiên Diêu-Đài. Nên ngăn ngừa Nộ lai xuất hiện, Nộ ấy là cung tiễn vô danh, Nộ vốn nghịch ý phát sanh, Nộ phân thủ túc tan tành khó an. Nộ là giận, dẫy tràn mất cả, Nộ khởi mầm giục-giã tung lên, Nộ thủy bình, sóng chao lên, Nộ là dao động gập-ghềnh tâm trung. Nộ khi giận vô cùng nguy hiểm, Nộ sát sanh diễn tiến khắp nơi, Nộ khi phát dậy tâm thời, Nộ xung khí huyết, đổi dời khó ngăn. Nộ khó giữ thăng bằng định số, Nộ bột bồng thấy lộ bụi nhơ, Nộ khi phát dậy trong giờ, Nộ là căn-bản ban sơ như hà. Nộ đoạn tuyệt người ta vẫn một, Nộ chia phân then chốt nào hay, Nộ sanh đố kỵ nhau hoài, Nộ là một vật tương lai sát mình. Chờ phẫn nộ gây tình oan-nghiệt, Phẫn nộ là đoạn tuyệt chân tay, Cùng nhau sanh trưởng trần ai, Một lò sản xuất, muôn loài vẫn y. Nên luyện tập diệt thì phẫn-nộ, Nộ sát nhau về chỗ thanh cao, Nộ sanh sát chí kiệt hào, Nộ là tiêu diệt Ai Đào nghĩa nhân. Nộ ẩn hiện châu thân ngự trị, Chênh lệch lòng tà ý phát sinh, Nộ đang lặn hụp trong mình, Nộ chờ hoạt động xuất hình mặt ta. Lưu bút ngọc kỳ ba điểm đạo, Thâu môn đồ truyền giáo-huấn đây, Luyện thần định mạng đủ đầy, Giữ-gìn thiện lạc thoát dây trần hồng. Sống nhơn-đạo ân cần ghi nhận, Tương-trợ nhau trực-tấn Thiên-Đàng, Đó là Tiên-Đạo nấc thang, Chẳng hành nhơn-đạo, Thiên-Đàng lánh xa. Giờ lưu bút phân qua phẫn-nộ, Cho môn đồ tìm chỗ diệt trừ, Sống trần đâu hưởng thu dư, Mờ lu linh điểm Mẫu-Từ đợi trông. Nên học tập cõi lòng khắc cốt, Diệt thất-tình rường cột tu thân, Trái oan trả hết nơi trần, Phản hồi Diêu-Điện, tường vân bao mình. Giờ lành Tôn-Sư thọ lịnh Diêu-Trì phân qua PHẪN NỘ cho chư môn đồ hiểu lý hầu tiến bước trên con đường tu nhơn-đạo. Giờ đã mãn, Tôn-Sư ban ân lành chư môn đồ, Tôn-Sư điển hồi Tiên động. ThăngVăn-Phòng Đại-Đạo Đàn Ngọ thời, 12-05 nhuần Tân-Hợi (4-7-1971) Pháp Đàn: Huỳnh-Mai-Nương * Đồng Tử: Huỳnh-Hoa, Hoa-Thủy ____________
HẢI môn sóng dậy bủa ba đào, TRIỀU thủy nhập nhồi lượn thấp cao, THÁNH triết tạo gầy ân đức hưởng, NHƠN hiền xây dựng bút đề trao. HẢI-TRIỀU THÁNH-NHƠN — Tôn-Sư mừng chư môn đồ, tu chỉnh đàn tiền tiếp lịnh, Tôn-Sư báo tin đến giờ, khá cung nghinh tiếp ứng. Tôn-Sư điển hồi Tiên cảnh. Thăng...
LINH cảm lòng phàm vận điển quang, SƠN kỳ phụng múa chuyển lai đàn, THÁNH tâm đạt đạo gầy Minh-Đức, MẪU thọ Tôn-Sư hạ giáo tràng. LINH-SƠN THÁNH-MẪU — Tôn-Sư mừng chung chư môn đồ an tọa. Giờ thọ lịnh Diêu-Cung tả đề một đoạn lưu vào Bình Minh tam quyển. Này chư môn đồ, sự tác động của lằn không khí hằng ngày để cung cấp cho vạn vật sống chung trong bầu vô tư vận chuyển. Sự thay đổi thời tiết, đó là do Thiên-lý vận hành tuần tự, có khác nhau tùy theo phương hướng. Mỗi mỗi đều di dịch bởi không khí vận hành vô trụ. Đó là cơ huyền bí sinh hoạt thường xuyên, chư môn đồ nào để ý. Nay Tôn-Sư phớt qua cho chư môn đồ hồi tưởng nơi nội tâm suy luận hay quyết đoán thử xem sự kiện của máy tuần-huờn, phải là có bàn tay vô hình điều khiển? Đó là vượt ngoài phạm vi tầm mức của chư môn đồ mà thế nhân thường luận. Nhưng chư môn đồ nên khác hơn, là chính thân Thượng-Đế. Phần bồi dưỡng xác thịt, Trưng-Nữ hướng đạo đường lối tại trần. Phần bồi dưỡng linh hồn, Tôn Sư đã bảo tồn tiếp thu đồ đệ. Vậy giờ nay, Tôn-Sư nhắc lại để chư môn đồ vượt qua giai đoạn. Giờ Tôn-Sư diễn dụ ghi vào bút tích.
Bầu tạo-hóa thinh thinh cao rộng, Mặt đất dày đặc lỏng chia ra, Khắp trong vũ-trụ đó là, Sống theo luật định bao la tuần huờn. Điển Tiên-Thiên LINH-SƠN đề bút, Sẵn tam tài dưỡng dục tâm điền, Vận hành tạo-hóa nhẫn kiên, Công tròn sắc thái trần miền đồng chung. Lập Đại-Đạo tựu trung luyện tánh, Khai Tam-Kỳ dựng cảnh Đại-Đồng, Giữ gìn mấy điểm nơi trong, Trung-dung chánh pháp, non Bồng bước lên. Ái nhơn vật, xây nền Thánh-Đức, Ái chúng sanh Tây-Vức hồi môn, Ái điều thiện lạc trường tồn, Ái tha đồng loại Thiên-môn thẳng vào. Ái bản thể cần trau tâm thiện, Ái tông đường thực hiện vô tư, Ái là luật định Mẫu-Từ, Ái đồng vạn vật vô tư phú bần. Ái, tình ái cõi trần vay trả, Ái, nghĩa nhân áo bả phủ thân, Ái không kẻ phú người bần, Ái không màu sắc biệt phân linh hồn. Ái như thể Từ-Tôn ái thế, Ái vinh hoa đâu để triền miên, Ái là yêu, diệt tâm phiền, Ái phân tách sự nhãn tiền hậu lai. Ái thể xác miệt-mài thinh sắc, Ái phù hoa, vùi lấp ái tàn, Ái danh, ái lợi, tiêu tan, Ái cần tiêu diệt, Thiên-Đàng hồi qui. Ái tha nhân, đồng qui ái tử, Ái tông đường cư xử trả vay, Ái đừng chật hẹp lòng này, Ái coi nghĩa trọng, khinh tài thế gian. Luật tam-thừa đà ban dưới thế, Thực hành đây chọn để tùy thân, Miễn sao đặng khỏi phong trần, Chuyển sang thế giới Tân-Dân Thượng đời. Hỡi môn đồ chớ vơi đạo mạch, Sắc DIÊU-TRÌ trọng trách còn ghi, Hiến thân hạ thế Tam-Kỳ, Lãnh phần sứ mạng hồi qui Diêu-Đài. Phần Nữ-Đạo nữ tài khắc cốt, Nơi gia môn rường cột tiếp theo, Quá giang thẳng lối một lèo, Thuận buồm xuôi gió qua đèo sông mê. Gánh Nữ-Đạo gia tề trọn gánh, Dù phú bần trong cảnh thưởng răn, Sống trần ràng buộc trói-trăn, Chớ nên luyến ái trịu trằn khó đi. Diệt thất-tình hồi qui trung đạo, Phần dục tâm cải tạo thanh cao, Diêu-Cung mở cửa bước vào, Phục hồi sứ-mạng Mẹ trao tại trần. Vậy môn đồ cần đánh thức tâm hồn, hầu làm gương cho Nữ-Đạo, vì Nữ-Đạo là hiện thân của Đức MẪU-HOÀNG. Chư môn đồ nên lưu tâm để tránh điều phiền muộn. Chư môn đồ thành tâm tiếp lịnh. Tôn-Sư điển hồi Tiên động. Thăng...
Văn-Phòng Đại-Đạo
Đàn Ngọ thời, 11-6 Tân-Hợi (1-8-1971) Pháp Đàn: Ngọc-Như-Liên * Đồng Tử: Huỳnh-Hoa, Hoa-Thủy ____________ (Tiếp điển:)
THƯỜNG trụ tâm phàm đạo chuyển mê, CƯ trần bất nhiễm bút lai đề, NAM bang hạnh ngộ Bình-Minh xuất, HẢI thọ Diêu-Trì chuyển sắc phê. THƯỜNG-CƯ NAM-HẢI — Bần-Nữ mừng chư đẳng chúng sanh. Tôn-Sư mừng chung chư môn đồ an tọa. Hỡi nầy chư đẳng chúng sanh, sự khốc liệt trong kỳ Hạ Nguơn diễn bày tại thế, đó là luật tuần-huờn đã định. Chư đẳng chúng sanh, sanh trưởng hiện thân phàm tục nơi cõi nầy phải chịu lắm điều phiền muộn, đớn đau, ngang trái, ngày càng tiến đến chỗ diệt vong, bởi sự tiến hóa của chúng sanh ngoài phạm vi đạo-đức, lòng nhơn-đạo đã mỏi mòn vì bị làn sóng đời văn minh lấp mất. Nền căn bản đạo lý chỉ còn là một lằn quang tuyến mờ lu với hiện thân vật chất để phục sinh lòng đạo đức, bởi càn khôn chấn động, thủy kiệt sơn băng, phong vân mạt trắc làm cho lòng người hồi-hộp. Sự sinh diệt phi thường, đó là một trở lực vô hình, để ngăn sự lũi-lầm của trần gian mãi theo đường vật dục. Muốn thay vào nền Thánh-Đức, nên thay nền Đại-Đạo mục đích chỉnh lại phong hóa cương thường, đem đạo lý tô vào tâm tục, lấy chơn thành ấn nhận tâm-tư, dụng muối dưa sưởi mát lòng phàm, dụng áo bả nâu-sồng để chùi gươm trí-tuệ. Đó là những mục tiêu để xoa tan dịu lòng đau khổ của chúng sanh khi thất chí, lúc buồn lòng có chỗ nương tựa để dập tắt lòng cô đơn của tình đời và tiêu diệt lần oan nghiệt. Thương thay! Lôi-Âm-Tự phá cổ, Ngọc-Hư-Cung bát luật, chọn lọc đời tu nơi thế sự lọng dù, đều lồng vào môi trường đạo-đức, xây am-tự trong lúc đời cùng thế tận nghiệp chướng phát sinh, nơi cổ-tự đổi thay qua bao trường tranh đấu, chốn Phật-đài thay đổi luật nhà tu. Đời tận, bao lớp cõi thế phù, dụng cửu khiếu đánh tan lòng ám muội; xây am-tự, tô tập tục, cởi mở lòng phàm, xây dựng lại đời Thánh-Đức kỳ-ba khai đại-xá, xây đạo-lý diệt trừ lục-dục cho nhơn sanh phục hồi phẩm vị. Vậy giờ đây, chư chúng sanh cần ghi nhớ.
Thân tứ đại vun trồng cội phúc, Lấy tinh thần gạn đục lóng trong, Kìa xem lưu thủy một dòng, Độn đào doi-vịnh tuôn dòng đại dương. Luật biến động trần miền tiêu trưởng, Máy càn-khôn hạ thượng phân minh, Bảo tồn thế giới hữu hình, Vận hành động tịnh u-minh xác phàm. Vườn cô-độc, Già-Lam xuất hiện, Ngọc pha-ly vận chuyển giới-ba, Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa, Ấn vào trí-tuệ Diêu-Tòa dời chơn. Vì môn đệ, dụng đờn tạo-hóa, Máy huyền-vi giáo cả vạn linh, Nội thân ngăn lấp thất-tình, Áng che quang-điển khó sinh ánh hào. Dục xuất hiện bao nhà đen đỏ, Dục tâm tà lấp ngõ Bồng-Lai, Dục là mối hại tâm nầy, Dục đường thiện-lạc Như-Lai điều hòa. Dục tư-tưởng phát ra ý thiện, Dục từ-bi vận chuyển tâm điền, Dục về đất Phật, bạn Tiên, Dục tâm từ-ái, dục miền phàm phu. Dục lòng tà muốn mù mắt tục, Dục lợi danh hạnh phúc không bền, Dục đành sát hại tuổi tên, Dục đường ám muội, móng nền tiêu tan. Dục chí-sĩ đầy màn danh lợi, Dục nữ-lưu thẳng tới Diêu-Đài, Dục cần ngăn chận sắc tài, Dục đường vật chất khó quày dấu chơn. Dục đưa đến Bồng-Sơn tâm thiện, Dục Như-Lai vận chuyển tâm linh, Dục cần khử ám hồi minh, Dục lòng thanh lọc, đời tình vượt qua. Dục sắc dục, đọa sa linh tánh, Dục lợi quyền, lâm cảnh trần ô, Dục lòng khí huyết hấp hô, Dục tâm tủi nhục hà mô đạt thành. Cần trau luyện lưu danh ĐẠI-ĐẠO, Lấy tinh thần cải tạo suy tầm, Phật, Tiên, Thần, Thánh do tâm, Hay là ngạ-quỉ, bởi tâm xuất hình. Lo gìn giữ tâm linh điển tụ, Khai thông đường vũ-trụ là tâm, Con đường thẳng đến luân trầm, Cũng là tại thử, bởi tâm xuất hành. Đời cuối tận xây thành ĐẠI-ĐẠO, Lo tầm phương đào tạo con tâm, Bồ-đoàn luyện tánh cao thâm, Nê-hà vượt mức khỏi lâm khổ sầu. Sóng trùng dương bể dâu tan-tác, Gió lợi quyền rào-rạc thân ma, Nhành dương tẩm nước Ma-Ha, Lên thuyền qua bảng vượt mà Bồng-Lai. Vậy Bần-Nữ ban ân chung phận sự. Điển hồi. Thăng...
|