KINH BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO QUYỂN 1
____________
THÁNH TỰA
(18 - 2 Mậu Thân)
Thi:
THANH thanh nhựt nguyệt chiếu trùng Thiên,
PHONG võ danh lưu hạ thế tiền,
ĐỒNG đạo tiếp nghinh ban Thánh bửu,
TỬ lai báo hỷ lịnh Hoàng-Thiên.
Tiểu-Thánh mừng chư Thiên-mạng tam ban đàn tiền, đắc lịnh tiếp khai. Chiếu sắc Mẫu-Từ triệu Ngũ-Sắc Tường Vân, năm vị thay mặt đến Bửu-Điện trung đàn hầu lịnh.
Khi tiếp lịnh, nam nữ tam ban đều tọa vị bế quan để tiếp lằn điễn quang của Từ-Phụ ban bố nghe. Khi tiếp lịnh, ba hồi chuông tỏ lòng kính trọng.
Vậy Tiểu-Thánh báo đàn, tiếp lịnh. Thăng...
(Tiếp điễn:)
Thi:
NGOẠN cảnh trần gian xuất chiết vương,
NỮ thai cẩm tú điểu phi thường,
PHẬT năng nhơn xuất trung kỳ bổn,
TÔN Giáo hoằng khai độ tứ phương.
Ngã NGUƠN-THỈ THIÊN-TÔN CHƯỞNG-GIÁO, mừng chư hiền đồ.
Giờ chót chư hiền đồ được tiếp nghinh Long-giá ban hành Thánh Tựa. Tôn-Sư vận dụng báo đàn để Phật Tiên ngự thế hoàn thành Kinh bửu.
Vậy Tôn-Sư xuất ngoại, tiếp lịnh Từ-Phụ hạ trần. Thăng...
(Tiếp điễn:)
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ
TÁ DANH CAO-ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy các con! Cha linh hồn mừng chung các trẻ. Vậy các con an tọa định thần nghe Thầy ban sắc.
Này các con! Các con có biết Thầy lao khổ vì các con chăng? Đạo bất quá nhơn tâm chi sở dục, mà các con buồn trách đến Thầy.
Nay giờ chót, Thầy ban cho các con quyển Kinh “BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO”. Các con tầm nội dung chơn lý mà thừa hành. Các con vẫn biết: Lời xưa Thầy đã tiên-tri: “Đạo không thành, tiên-tri phải hoại; Đạo không thành là tại các con.”
Nay, Thầy ban cho các con ân huệ tại trần, những con đã thừa hành sứ mạng. Các con đã biết: giữa thời cuộc phong ba trào lưu chinh đổ, đó là bởi máy Thiên-Cơ. Thầy ước mong cho các con: Từ đây đã thẳng vào đường quang minh chánh đại thì mới mong hấp thụ nơi cõi hư linh. Chữ “BÌNH” là giữa lúc sáng khai mối Đạo, con đang gặp buổi thạnh hành, sau sắp chinh nghiêng, rồi sẽ đến lúc huờn nguyên nhứt bổn. Bởi câu:
Chơn giả nan phân vô thế lộ,
Công hành đa thiểu vị nhơn cao.
Chữ “MINH” có nghĩa là:
Thanh Phong nguyệt chiếu Cơ-Quan đại,
Yểu-yểu chơn như bất khả truyền.
Vậy giờ chót, Thầy giải bày Thánh Tựa, sau chư Tiên lai đàn diễn tả. Các con tiếp lịnh, Thầy hồi Bạch-Ngọc. Thăng...
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ
(Tiếp điễn:)
NGUƠN-THỈ CHƯỞNG-GIÁO
Tôn-Sư báo đàn, tiếp lịnh Tam-Giáo hạ trần. Tôn-Sư điễn hồi Tiên cảnh. Thăng...
(Tiếp điễn:)
Thi:
THÔNG lý cơ quan mối Đạo Cao,
THIÊN nhiên dĩ định có sai nào,
GIÁO dân chủng loại xem buồn bã,
CHỦ một Tiên-Ông hỏi mấy màu.
Mừng chư hiền đồ.
Bài:
Ngồi động báu xem Kinh Chơn Thánh,
Lại phút đâu lịnh Thánh-Chỉ truyền,
Tá cơ giáng bút đàn tiền,
Phê Kinh Đại-Đạo sĩ hiền khá xem.
Lão ngao ngán đỏ đen thế sự,
Thuở Phong-Thần đôi chữ rạnh bia,
Hữu căn mau trở lộn về,
Vô duyên quanh quẩn tư bề khổ thân.
Đạo Kinh sám muôn phần bày tỏ,
Ngán cho đời chẳng có tuân theo,
Quá giang chưa khỏi buông lèo,
Đắm chìm bể ái, nước bèo linh đinh.
Nay mừng gặp BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO,
Chỉ con đường chánh giáo năng tu,
Từ đây liên tiếp mùa Thu,
Thạnh hành Đạo-Đức đường tu vững vàng.
Tiếp lịnh. Tôn-Sư điễn hồi Tiên cảnh. Thăng...
(Tiếp điễn:)
Thi:
BÌNH định nhơn tâm dụng pháp mầu,
MINH truyền thế giới luyện đơn châu,
ĐẠI đồng chủ nghĩa triều nguơn hội,
ĐẠO đức thanh cao đạt lý mầu.
LÝ LÃO TỬ, Tôn-Sư mừng hàng đệ tử.
Bài:
Ngồi luyện thuốc trường-sanh bất-lão,
Kế phút đâu Nguơn-Thỉ thỉnh già,
Giáng đàn mừng hội Long-Hoa,
BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO diễn ra khắp cùng.
Tiếp lịnh. Tôn-Sư điễn hồi Tiên cảnh. Thăng...
(Tiếp điễn:)
Thi:
BÌNH đẳng nhân-sanh buổi đạo nầy,
MINH truyền Chơn-Giáo khắp Đông Tây,
ĐẠI đồng phán đoán Bình-Linh hội,
ĐẠO đức năng tu sẽ gặp Thầy.
Ngã KHỔNG-PHU-TỬ, chào chư đồ đệ.
Bài:
Cơ quan nay đã triết minh,
Hội đồng Thánh Phật tả Kinh đôi hàng.
Xem nhơn loại Đạo tràng đâu tá,
Kế thiện-căn sa ngã tinh thần,
Nhìn xem Thập-Nhị Long-Vân,
Nhơn-sanh hao hết tám phần còn hai!
Đành nỡ để ngơ tai bít mắt,
Để đi theo ngã tắt đường quanh,
Thiên-cơ mấy kẻ lo hành,
Buông trôi Đạo cả phải đành nguy nan.
Tiếp lịnh. Tôn-Sư phản hồi thượng cảnh. Thăng...
(Tiếp điễn:)
Thi:
BÌNH cơ Đạo chẳng có bao lâu,
MINH nguyệt sáng soi quả địa cầu,
ĐẠI giác chơn-như cơ tái lập,
ĐẠO truyền bủa rải khắp năm châu.
SĨ-ĐẠT-TA, Bần-Đạo mừng chư chúng sanh đẳng đẳng.
Bài:
Cơ Đại-Đạo từ đây khai hoát,
Khuyên chúng sanh chay lạt rèn trau,
Sửa tâm chơn chánh mau mau,
Chớ mê vật chất sa vào hiểm nguy.
Đạo tuy khổ vô vi bao sá,
Cơ hữu hình khảo cả chúng sanh,
Biết bao nhiêu kẻ tu hành,
Biết bao nhiêu kẻ lợi danh bỏ Thầy.
Cơ phổ hóa Đông Tây hiệp tái,
Lúc suy vi trở lại thạnh hành,
Lần tay xem thử nhơn sanh,
Để coi đạo đức tu hành bấy nhiêu.
Tiếp lịnh CHÍ-TÔN hạ thế. Tôn-Sư phản hồi Cực Lạc. Thăng...
(Tiếp điễn:)
HUYỀN-KHUNG-CAO THƯỢNG-ĐẾ
Thầy mừng chung các trẻ! Các con an tọa nghe Thầy tả:
Bài:
Đạo sắc chuyển từ niên Giáp-Tý,
Máy cơ quan Thầy chỉ cho Chiêu,
Để đem phổ độ dắt dìu,
Cho nhơn sanh đặng bái triều Tiên-Ông.
Qua Bính-Dần vừa xong mối Đạo,
Chiêu, Kỳ, Trung, Sang, Thảo, Hoài, Minh,
Thiên-Cơ chuyển vận thình lình,
Tắc, Cư phụng sự TỔ-ĐÌNH TIỀN-GIANG.
Đạo sắc chuyển chưa an nhơn loại,
Thầy chuyển Chiêu lập phái CHIẾU-MINH,
Phùng Ca lãnh lịnh Thiên-Đình,
Lập MINH-CHƠN-LÝ phục bình ngũ-chi.
Ngày Đại-Đạo Tam-Kỳ chưa vững,
Cơ rẽ chia kẻ đứng người đi,
Trang, Tương thọ sắc lịnh thì,
Lập cơ CHỈNH-ĐẠO kịp kỳ Hoa-Long.
Đạo gặp buổi long đong gay gắt,
Hỡi này con tai mắt của Thầy,
Vận hành cơ Đạo chuyển xây,
Nhơn-sanh hấp thụ Đạo Thầy tràn lan.
Thiệu với Phát mãi đang toan tính,
Thấy chinh nghiêng lo chỉnh cơ quan,
Đem về nơi chốn Hậu-Giang,
Lập MINH-CHƠN-ĐẠO có Quang trợ vào.
Thầy nghĩ đến biết bao chua xót,
Cũng chung nhành trái ngọt trái chua,
Đem gieo hạt giống nên mùa,
Chín sau cùng trước hơn thua rộn ràng.
Tòng, Ty thấy cơ quan nguy biến,
Nhìn chúng sanh một kiểng nhiều quê,
Tính đem mối Đạo gom về,
TIÊN-THIÊN thành lập bốn bề phổ thông.
Vì nhơn nguyện Thiên tùng độ chúng,
Nào hay đâu tiêu chuẩn quí quyền,
Đạo Thầy vừa mới vẹn yên,
Bộ, Thanh lãnh lịnh lập riêng TRUNG-HÒA.
Thêm Nhuận, Ruộng truyền ra rẽ phái,
Thầy lụy sa nhơn-loại biết bao,
TÂY-TÔNG Tài cũng đem vào,
LIÊN-ĐOÀN ĐÀI-GIẢN một màu BẠCH-Y.
Thầy chuyển vận trường thi nguơn hội,
Cho chúng sanh sớm tối lo toan,
CAO-ĐÀI HỘI-GIÁO sắc ban,
Phượng, Thơm lãnh lịnh lập tràng thi công.
Nơi TỔNG-HỘI Quế, Long nhơn nguyện,
Thiên cũng tùng nhơn chuyển ra sao?
Qui nguyên đậm nét tô màu,
Cũng trong Đại-Đạo Thiên-Tào chấm công.
Thầy nhắc đến gan đồng chua xót,
Mà sao con đắng ngọt mãi chia,
Con ôi! lớn nhỏ mau về,
Qui-nguyên căn bổn đề huề như xưa.
Thầy ân xá tam-thừa chế giảm,
Hỡi con ôi! lãnh đạm dứt đi,
Vẻ-vang hai chữ Tam-Kỳ,
Sao rằng Đại-Đạo mãi thì tiểu tâm?
Đạo tính đã nhiều năm thì có,
Sự hành vi chưa rõ đầu đuôi,
Để cho con phải bùi ngùi,
Lao tâm tiêu trí bao hồi đó con.
Chuông cảnh tỉnh boong-boong giục thúc,
Trống Lôi-Âm tiếng giục mê trần,
Làm sao minh-đức tân-dân?
Chỉ ư chí thiện tao tân cộng-hòa.
Vậy mới đẹp lòng Cha một thuở,
Sao đáng trang nên Sở qui Tần,
Để ra giúp ích lợi dân,
Đạo giàu đức mạnh tu thân vững vàng.
Nay Thầy đã đôi hàng phân giải,
Học Bình-Minh lẽ phải ghi xương,
Đem ra thi thố khoa trường,
Đức tài vĩnh viễn an khương tấn hành.
Đạo càng chuyển nhơn-sanh càng khổ!
Nên tầm phương phổ-độ lưu thông,
Đến ngày phán đoán đại đồng,
Thước khuôn Thầy nắm, con hồng chốt then.
Thấy cuộc thế đỏ đen ham muốn,
Nào đỉnh chung lôi cuốn trong trần,
Lo sao là hạng con dân,
Buông trôi Đạo cả lãnh phần đớn đau.
Nhắc từ khúc gan xào ruột héo,
Dạy từ câu mấy nẻo tang thương,
Đạo Thầy không phải qua đường,
Chính Tòa Tam-Giáo gom trường ứng thi.
Thầy vì quá từ-bi, bác-ái,
Hết tiếng khuyên lẽ phải đường ngay,
Diễn phô hai chữ Cao-Đài,
ớ con phấn khởi có ngày nên danh.
Nay giờ chót thật hành chơn lý,
Dạy các con suy nghĩ cho xa,
Nước non đạo-đức chung nhà,
Dân là dân quốc, Đạo là Đạo chung.
Mãi riêng rẽ bão bùng chích mãi,
Cho rằng mình đó phải đây không,
Nền Thiên-Đạo chuyển Đại-Đồng,
Ngọn cơ Thầy điểm gạn lòng công phu.
Bình-Minh Đạo đường tu giọi bóng,
Chiếu khắp nơi lộng lộng phương Nam,
ớ con chớ gọi hoa-đàm,
Tỏ khêu ngọn đuốc lên làm Phật Tiên.
Con lao khổ Thầy yên sao đặng,
Con dại khờ Thầy chẳng thương sao?
Thấy vầy Thầy động lòng đau!
Công-phu một thuở tương rau hết rồi.
Sớm đi đứng nằm ngồi than thở,
Con mang câu nặng nợ trăm hằng,
Trong đời con luống ở ăn,
Đẩy xô níu kéo còng trăn tội tù.
Tầm đạo-đức cần tu quí giá,
Vàng chìm nơi biển cả ai tầm,
Trong đời mấy bực tri âm?
Thế gian mấy kẻ hữu tâm mấy người?
Sớm than khóc, chiều cười vui thú,
Vậy con cho là đủ đời con,
Nào là nước, nào là non,
Tiếng khen thế sự là con ma đời.
Biết đạo-đức đừng rời tâm chí,
Dầu đớn đau bao ví than-van,
Đạo tâm nơi cõi Thiên-Đàng,
Chùa cao cột lớn, Phật vàng chớ ham.
Bậc Thượng-Thừa dù nam hay nữ,
Để tâm Không hai chữ vô-vi,
Âm thinh sắc tướng làm chi,
Hữu hình hữu hoại, có khi rã rời.
Đạo muôn sách do nơi tâm điểm,
Rèn tinh anh tháo luyện cho nhuần,
Khươi đèn Thái-Cực sáng trưng,
Thượng-Thừa con hãy khá tuân lời Thầy.
Giã từ, Thầy hồi Bạch-Ngọc. Thăng...
KINH BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO
Đàn Ngọ-thời, ngày 29 tháng 2 năm Mậu-Thân (nhằm 27-3-1968)
____________
(Tiếp điễn:)
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ
kim viết Cao-Đài giáo Đạo Nam Phương
Thầy ban ân lành chung cho thế gian, các con an tọa nghe Thầy tả.
Chữ Đạo vẫn ngòi son tô điểm,
Khá nghiệm suy kiểm điểm nơi lòng,
Đạo là mạch nước nguồn trong,
Tràn lan khắp chảy lưu thông giáo truyền.
Thầy giáng bút lời khuyên đã cạn,
Học làm sao cho đáng con Thầy,
Mặc tình con đấy Thầy đây,
Khổ lao con phải làm khuây chớ phiền.
Đạo con trẻ ba giềng tua gắng,
Bổn phận tròn lời dặn của Thầy,
Từ nay qui Bắc hiệp Tây,
Giống nòi con phải liên dây dắt dìu.
Thầy tá bút tả nhiều Kinh sám,
Thầy buồn cho cả đám quần sanh,
Đọc Kinh mà chẳng y hành,
Lại khen chê lắm cải-canh giáo truyền.
Thầy sắc chỉ con hiền mau lãnh,
Lãnh vai tuồng ấm lạnh đừng than,
Phổ-thông giáo Đạo bủa tràn,
Vun bồi nền móng hiệp đoàn nhơn-sanh.
Con hữu chí thi hành đáng phận,
Đứng râu mày hối hận nước non,
Hễ cây Linh-bút chưa mòn,
Đạo tâm con giữ, Thầy còn giáng cơ.
Thầy đã tính ngày giờ y số,
Dạy các con suy cổ nghiệm kim,
Mối dây Đạo vẫn im-điềm,
Lo sao cho chóng, tỵ hiềm chớ phân.
Nhìn thời cuộc Long-Vân mãn hạn,
Hội Long-Hoa phán đoán đại-đồng,
Đức tài cho vẹn mới xong,
Tài vô đức thiểu, khó mong đến Thầy.
Thương chúng sanh, Kinh này chỉ vẽ,
Từ tiếng khuyên cặn kẽ mãy lông,
Con mau triêm nghiệm nơi lòng,
Từ câu bí ẩn phi long tỏ tường.
Nhơn ý nguyện Thiên đường độ tận,
Con chớ than rằng phận ấu nhi,
Miễn trong hai chữ Tam-Kỳ,
Châu nhi phục thỉ, Thiên thì vẫn ban.
Đạo kinh sớm tràng-phan huấn giáo,
Tại các con ai bảo không lo,
Rừng nhu, biển Thánh không mò,
Nhà văn cửa Khổng mấy trò ứng thi.
Ngày Đại-Đạo Tam-Kỳ qui nhứt,
Con tứ phương tranh đức đua tài,
Nữ nam đẹp mặt nở mày,
Cùng nhau đồng bước thời lai một đàng.
Thầy giáo Đạo tam giang phân phát,
Nhưng chỉ qui một lát Tiên ban,
Trước khi mở Đạo Tiền-Giang,
Lập nên Phái Thượng, Đạo vàng phổ thông.
Qua Nhâm-Thân đại đồng sắp mở,
Đạo-đức càng mở cả tam giang,
Thầy khai mối Đạo trung-giang,
Lập nên Phái Thái chiêu an sĩ tài.
Cơ tấn hóa Cao-Đài tối trọng,
Mà các con hư hỏng vì đâu,
Để tầm mãi luống trông dâu,
Hóa thân nên kén công đâu bủa tràn.
Thầy chuyển Đạo, hậu-giang Phái Ngọc,
Lấy thời kỳ làm gốc Đạo Cao,
Đức tin con trẻ đem vào,
Lịnh Thầy truyền chỉ một màu Bạch-Y.
Đạo tam giang gồm qui nhứt bổn,
Chuyển cung Ly hiệp Tốn cung Càn,
Nay Thầy phân giải Tam Giang,
Tỏ khêu đuốc tuệ rọi đàng con đi.
Song tách rẽ nhiều chi nhiều phái,
Cơ phổ-thông Thầy phải chuyển ra,
Qui nguyên con trẻ một nhà,
Chơn hành giả diệt con ta tỏ bày.
Nhớ hai chữ Cao-Đài cứu thế,
Quên hai câu khi dễ Thánh Thần,
Trí-tri một dạ tao-tân,
Rèn lòng tráo-chác đừng phân bản quyền.
ớ hỡi trẻ, thảo hiền trung tín,
ớ con ôi! tà nịnh ham chi,
Vẻ vang hai chữ Tam-Kỳ,
Khôi khôi Thiên võng nhược thì thế theo.
Thầy chẳng vị giàu nghèo bao sá,
Miễn các con hiểu cả Đạo đời,
Nghèo mà đạo-đức phơi phơi,
Cũng như cây úa gặp thời tuyết chan.
Không đạo-đức giàu sang bao lát?
Chỉ tiêu tan thấm-thoát gió mây,
Nước khi vơi, ắt khi đầy,
Trăng trời hết khuyết, đượm đầy tròn tươi.
Gẫm cuộc thế khóc cười theo dính,
Suy nghĩ mình mấy chính đó con,
Cao mưu Gia-Cát hỡi còn,
Tài như Liễu-Nhứt mỏi mòn lắm ru.
Xuân đã mãn Hạ Thu Đông tái,
Tháng qua rồi năm lại vừa qua,
Tóc xanh thử hỏi khi già,
Sống y ba vạn sáu ngàn ngày chăng?
Cái khổ đã buộc ràng linh tánh,
Chỉ ở trong hoàn cảnh não nề,
Thấy vầy Thầy luống ủ ê,
Các con sao chẳng tởn ghê chút nào?
Đường tấn hóa làm sao cho kịp,
Bước văn minh lướt hiếp tinh thần,
Nói rằng ích nước lợi dân,
Xét ra cho thật cái thân não-nề.
Khuyên con trẻ mau về Tiên Phật,
Đất minh châu thật đất quý thay,
Thế gian chỉ có đa tài,
Lăng-xăng chôn lấp, quên ngày Ngọc-Kinh.
Thương lẫn cả thương mình luôn thể,
Độ chúng sanh, phổ tế cho mình,
Phật Trời huyền diệu thinh thinh,
Sáng soi khắp cả chơn-linh các loài.
ớ hỡi trẻ nhơn tài trọn ý,
Giúp Đạo Thầy giúp ý cho con,
Linh-Tiêu Thầy luống thon-von,
Khóc là oan trái vì con dại khờ.
Đạo do bởi Thiên-cơ dắt trẻ,
Mà các con có lẽ hiểu rành,
Đường đời là vũng hôi tanh,
Có chi là quý giựt-giành đẩy xô.
Thầy vẽ sẵn bản đồ mực thước,
Cho con tường thao lược tinh anh,
Từ đây con phải thi hành,
Thiên lao vạn khổ Thầy đành bỏ sao?
Đời hằng nói Trời cao soi thấu,
Có việc chi con giấu đặng người,
Giấu người con lại dể-duôi,
Giấu Trời sao đặng con ôi hiểu rành.
Thầy nhắc đám quần sanh chủng loại,
Đã réo kêu chẳng ngoái lại sao,
ối thôi! ruột tím gan xào,
Trái tim Thầy chảy máu đào nhuận tuôn.
Con ra lãnh vai tuồng gánh nặng,
Hãy lóng nghe lời dặn của Thầy,
Tử vì đạo-đức như vầy,
Đắc thành chánh-quả theo Thầy về nguyên.
Danh vẫn để lưu truyền hậu thế,
Tiếng ngợi khen sử để muôn đời,
Trải gan mật vẫn phơi-phơi,
Trăm muôn ngàn việc do Trời định phân.
Thầy cầm một cán cân chơn lý,
Thầy chẳng riêng tư vị con nào,
Chép biên số mạng Thiên-Tào,
Lành ban ác đọa mãy hào sót sai.
Hễ chưởng giống đợi ngày ăn trái,
Hễ trồng cây thì phải vun phân,
Hễ tu bồi bổ tinh thần,
Hễ đời thì phải tảo-tần chạy lo.
Biết đạo-đức khuyên trò triêm nghiệm,
Biết Đạo lo tìm kiếm nơi lòng,
Biết rằng khắp cả non sông,
Biết cho Thiên võng mãy lông lọt nào.
Biết đạo-đức mau mau hiệp lại,
Biết khôn ngoan thì phải biết nghe,
Biết nghe mỗi việc kiêng dè,
Biết xa tứ khổ, bạn bè kết chi.
Biết chỗ hại, còn đi a lại,
Biết chỗ hư mà cãi a vào,
Như vầy Thầy liệu làm sao?
Như vầy con chịu đớn đau một mình.
Con thông-thái còn khinh Tiên Bụt,
Con rõ thông Cơ-bút làm sao,
Mà con buông tiếng hổn hào,
Chê bai Thần Thánh khác nào trẻ chơi.
Chẳng sớm muộn chiều mơi con rõ,
Con rõ cho cùm rọ vương mang,
Đến chừng thấy khổ rồi than,
Ăn năn đã muộn, réo vang Thánh Thần.
Trước chẳng lo tu thân nhơn-đạo,
Để mượn vay quả báo theo mình,
Từ đây con rán xem Kinh,
Bình-Minh Đại-Đạo con gìn nơi tâm.
Thăng...
BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO
Đàn 4/3 Mậu-Thân (1-4-1968)
__________
NGUƠN-THỈ CHƯỞNG-GIÁO, Tôn-Sư mừng chư hiền đồ, thành tâm tiếp lịnh Chí-Tôn hạ trần. Tôn-Sư điễn hồi thượng cảnh...
(Tiếp điễn:)
GIÁO hóa đàn con buổi hạ-nguơn,
CHỦ tâm Thầy định khuyến con sờn,
NGỌC Kinh chỉ dụ đôi lời giải,
HOÀNG nghiệp gỡ lần tiếng thiệt hơn.
Thầy ban ơn lành chung cho thế gian.
Nầy các con! Đời sống tạm các con còn nhiều chưa hối hận. Những con tài thì còn lận đận, lắm thương ôi!
Trường thiên hận Thầy giải bày khúc nôi cho con Ta tường ta thán.
Bình-Minh Đại-Đạo ra đời thì đời phải tường cách vật, rõ trí tri. Hỡi các con! Thầy vận điễn quang dìu dắt các con, đưa tay báu đỡ nâng con còn chìm trong bể ngạn. Các con đã rõ tri cơ cuộc tường-quang vân hiện. Thầy vận chuyển Lục-Long hạ thế, ngự ngọn linh cơ kề cận các con. Các con nên hiểu: giữa thời cuộc cô đơn lẻ phận, nhựt-lạc tan du, thân trơ trọi chương trình đổ nát, nơi tâm linh con khó đạt bí mầu. Các con thử nghĩ: cuộc vui say nơi cõi trần của các con có là bao mà làm cho thân xác con phải tiều tụy tinh thần. Các con nào học cao, thấy xa hiểu rộng, các con cũng hiểu câu: “Lương điền vạn khoảnh nhứt nhựt nhị thăng”, có chi vui sướng mà ham hố đó con.
Các con đã lập thân hành Đạo mà các con không tầm suy nghĩ-ngợi để đem nạp Thầy cho ác quỉ! Con cái như vầy có đáng trách không? Trong đời, quí nhất là Đạo; học đạo tề gia, lập thành quốc chánh, học đạo tề gia, lập đạo trị quốc; đó là con đường quang minh chánh đại. Thầy ước mong cho các con đạo tâm nên thực hành chánh pháp để hy sinh thi thố mối Đạo Thầy trường tồn vĩnh viễn cho nền Quốc-Đạo, đó là Thầy lập cho các con. Vậy các con an tọa nghe Thầy dạy:
Trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ nghiêng ngửa,
Hỏi có con nào ra gánh sửa thay mặt cho Thầy?
Nhìn từ Nam, Trung, Bắc, Đông, Tây,
Ngảnh lại kỹ con của Thầy mà còn chưa tin trọn Đạo.
Ôi! Cha đã hiền mà con không ngay thảo,
Cha đã lành mà con không hiếu đạo bổn phận làm con.
Thầy lụy rơi dạ ngọc héo von,
Đã độ thế không nệ tấm thân mỏi mòn còng lưng chích gối.
Con mãi mãi đường tu giả dối,
Thiểu công phu, tội lỗi biết bao hằng,
Gặp mặt nhau luận Đạo lăng xăng,
Vắng một lát, dạ tính mưu thần chước quỉ.
Con hữu chí nghe lời Thầy nên suy nghĩ,
Đạo đức tròn thì mới phỉ đẹp lòng già,
Sống nơi trần vui đôi câu vinh nhục với phù hoa,
Mà con mãi mê sa nơi đường lục đạo.
Giờ linh Thầy đến đàn dạy các con từ tiếng khuyên dặn bảo,
Mà các con chưa thấu đáo cuộc tiêu trưởng dinh hư.
Gió Đông Nam tỏa phất ngọn cờ,
Đàn thanh tịnh Thầy vạch thiên-cơ dạy các con từ kẽ răng chơn tóc.
Nghĩ cuộc thế nay cười mai khóc,
Mà các con sao mãi vùi lấp cái điểm linh quang?
Dìu dắt nhau lên tận cõi Thiên-Đàng,
Đường tu niệm là nấc thang tiến hóa.
Bình-Minh Đại-Đạo Thầy vừa phê lịnh tả,
Phóng muôn đường trăm ngã Thầy đã dặn dò con,
Ôi thôi rồi! bình tan gương vỡ, sự thế chẳng chi còn,
Thân cô quả héo von cũng tỷ như vượn lìa non cành trơ chiếc lá.
Vậy các con mau hồi tâm bươn-bả,
Hầu trở lại chốn cũ đạo-đức tô bồi.
Cả tiếng kêu nam, nữ các con ôi!
Thầy là Chúa-Tể càn-khôn mà Thầy bỏ ngôi báu không màng nơi Linh-Tiêu-Cực.
Giấc say ngủ của các con mơ màng chưa chịu thức,
Sẵn chén thuốc thần thì con mau uống phức đặng trả cái nghiệt oan khiên.
Gió Đông-Nam sóng bủa nhận thuyền chìm,
Cơn giông tố mà các con ngồi êm đềm sao không kinh hãi?
Đạo ra đời thì đời khổ mãi,
Đạo sửa đời thì đời phải gặp tai biến bao la,
Một mai thì con thảo sẽ gặp mặt Cha,
Thoát bể ái con khỏi rên la phiền phức mãi.
Nã-Phá-Luân gương còn nêu lại,
Ngang dọc đời rồi thân bảy thước cũng đâu còn,
Bực hiền nhân muôn thuở vẫn còn,
Thầy tỏ vẽ chữ Đạo son, các con tua học lấy.
Lấy lời dạy bảo các con,
Con tua giữ vẹn lòng son thảo hiền.
Ngày thanh tịnh đàn tiền giáng bút,
Dạy các con trong đục thi hành,
Thầy khuyên con chớ cải-canh,
Thầy mong con chớ chia manh rẽ quyền.
Nắng lửa táp, ngửa nghiêng náo nhiệt,
Mưa dầu chan, con biết cùng không,
Nạn tai khắp cả trần hồng,
Biết bao nỗi khổ cho lòng đớn đau!
Miễn là trẻ tương rau hẩm-hút,
Đợi ngày cùng trong lúc nguy nan,
Thần Tiên sẽ độ lên đàng,
Gió to sóng lớn thuyền càng sợ chi.
Đạo tách tẽ nhiều chi lắm ngã,
Mấy mươi năm rạng cả Cao-Đài,
Khắp cùng Nam Bắc ai ai,
Mà không rõ tiếng Cao-Đài là danh.
Cơ phổ-độ nhơn sanh khai hoát,
Nay đến kỳ tan tác lo tu,
Rèn lòng tô điểm công phu,
Luyện Thần bữa bữa, đường tu vững vàng.
Con trần tục cơ quan khó rõ,
Máy nhiệm mầu con có hiểu đâu,
Sao qua áo mặc khỏi đầu,
Bao nhiêu quanh-quẩn, dãi-dầu, khổ-lao.
Bước một bước, sửa trau một bước,
Được một ngày một thước cho tròn,
Gìn lòng giữ vẹn phận con,
Tinh thần trau luyện lòng son đợi chờ.
Thuyền đậu tận nơi bờ rước khách,
Phải lần theo đạp vách trần ai,
Xuống thuyền Bát-Nhã chèo gay,
Lướt qua bể ngạn đức tài vẹn xong.
Đạo khắp chỗ phổ-thông giáo-lý,
Để con ta nghiệm kỹ suy tường,
Chung nhà là một chữ thương,
Ơn Thần nợ Thánh phải bươn lo đền.
Tiếng gạnh để tuổi tên muôn thuở,
Sao rằng cho rỡ-rỡ lưu danh,
Trái cân chơn lý thật hành,
Chờ ngày Xuân đến trái cành đượm tươi.
Sống một kiếp hỏi bao mươi tuổi,
Đến thác rồi cũng phủi tay trơn,
Còn ba hơi thở tranh hơn,
Dứt ba hơi thở cũng huờn đất không.
Sanh cõi thế long-đong tai nạn,
Về cảnh Tiên kết bạn vui vầy,
Nghêu-ngao dạo khắp Đông, Tây,
Giáng thăng giáo Đạo mặt nầy tự do.
Đàn trung, Kinh Thánh đã phân tròn,
Khuyến thế gìn nhau giữ phận con,
Một kiếp tương rau muôn kiếp hưởng,
Theo Thầy cho chóng bước bon-bon.
Thầy ban ân lành các con. Thầy hồi Bạch-Ngọc. Thăng...
BÌNH-MINH ĐẠI-ĐẠO II
Hòa-Đồng Tôn-Giáo
Tý thời 18-5 Kỷ-Dậu (1-7-1969)
Pháp Đàn: Huỳnh-Hoa-Pháp * Đồng Tử: Kim-Hoa
____________
TÔN-BÁ-LINH, Tôn-Sư mừng chư hiền đồ. Tôn-Sư báo đàn, chư hiền đồ thành tâm tiếp lịnh Kim-Mẫu hạ trần. Tôn Sư xuất ngoại. Thăng...
(Tiếp điển:)
VÔ-CỰC TỪ-TÔN, Mẹ linh hồn mừng chung các trẻ! Các con an tọa nghe Mẹ tả Kinh.
Đạo đã chuyển từ niên Giáp-Tý,
Máy huyền linh khởi thỉ đề qua,
Thập nhị chi phái phân ra,
Cùng chung hột giống của mà Huyền-Khung.
Vì nhơn nguyện Thiên tùng như thử,
Mấy mươi năm hai chữ Cao-Đài,
Khắp cùng thế giới đều hay,
Qui-nguyên đề xướng sắp bày thêm ra.
Mẹ nhắc lại con Ta tường tận,
Vì thời cơ chuyển vận chưa thông,
Phổ thông hai chữ Đại-Đồng,
Dường như sét đánh, trời long, đất dày.
Bởi như thế đổi thay ý nguyện,
Vì nhơn tâm vận chuyển chưa thông,
Lê-Ngọc-Lịch thọ sắc phong,
Chuyển cơ Hiệp Nhứt Đại-Đồng tiếp liên.
Cùng Thiên-Đạo Huờn-Nguyên chi thế,
Lập chánh truyền hầu để phổ thông,
Quách-Văn-Nghĩa hợp chung đồng,
Cùng Lê-Quang-Hộ ân phong lập thành.
Tiếp chuyển tiếp tồn sanh Đại-Đạo,
Cơ qui-nguyên hoài bảo huờn lai,
Phan-Khắc-Sửu, Nguyễn-Bửu-Tài,
Hồi chuông đổ trống Cao-Đài Qui-Nguyên.
Gây khắp nẻo cùng miền quê thị,
Cho khách trần chung thủy lưu tâm,
Vận hành đã được bao năm,
Đạo Trời thống nhứt còn nằm đợi trông.
Chơn lý tầm nguyên thông đạt nguyện,
Phần Tú, Kiên thực hiện Giác-Đài,
Tinh thần nhằm lúc lung lay,
Khiến nên cơ Đạo khó khai hấn bền.
Kỳ vận chuyển tuổi tên tỏ rạng,
Nơi Tam-Quan treo bảng trường thi,
Mở đường Đại-Đạo Quang-Kỳ,
Thảo cùng Phan-Nghị phát huy Đạo vàng.
Chưa ổn định thi tràng khai hoát,
Chung-Tâm Hòa-Phái phát phổ thông,
Trần-Công-Sanh quyết một lòng,
Lập thành chủ nghĩa giao thông Thiên-Hoàng.
Vì như thế khó toan hành sự,
Bởi danh từ khó giữ bền lâu,
Tiếp qua một đoạn nhịp cầu,
Kỳ duyên quả mãn ngõ hầu đạt công.
Lần lượt qua cộng đồng Thiên luật,
Nơi Nhị-Giang hiệp sức nhơn-hòa,
Giữ gìn bản thể Trời Cha,
Ngô-Hoàng-Dư thọ kỳ ba lập thành.
Vì tư tưởng phát sanh vô định,
Đành trôi qua vì lịnh đã truyền,
Làm sao phục lại bổn nguyên,
Làm sao cấu tạo nhơn duyên Đạo Trời.
Kỳ phát động khắp nơi xây dựng,
Trung-Hưng-Tòa triệu chứng đề qua,
Trần-Văn-Quế, Vĩnh-Thuật ra,
Lãnh phần sứ mạng Trời Cha lập thành.
Cao-Thượng-Tòa chánh danh đề diễn,
Nơi Hậu-Giang diễn tiến điều hòa,
Trần-Ngọc-Lân thọ lịnh Cha,
Lập thành Thánh-Thể Kỳ-Ba tại trần.
Điểm xét lại cựu tân cho đủ,
Chơn-Lý Hồi-Quán trụ Cao-Đài,
Nguyễn-Văn-Năm thọ sắc khai,
Trong hồi biến chuyển Cao-Đài phân thân.
Tu-Di-Đồ nơi trần xuất hiện,
Bởi lòng phàm sở nguyện tạo nên,
Làm sao bảo vệ tuổi tên,
Nguyễn-Văn-Mưu nguyện xây nền Thánh-Cơ.
Vừa minh định Thiên-Thơ mở hội,
Khiến lòng người thay đổi khôn lường,
Tiên-Thiên Giáo-Hội đề chương,
Đoàn-Văn-Chiêu lãnh cột rường nơi đây.
Mẹ nhắc đến lòng nầy đau khổ,
Bởi vì con một ổ chia nhau,
Khiến nên cốt nhục pha màu,
Đoạn ra từ đoạn lưỡi dao vô tình.
Nay Mẹ tả BÌNH-MINH kế tiếp,
Điểm đề danh liên hiệp phái chi,
Đặng cho con trẻ tường tri,
Trong ngày Long-Hội con qui một nhà.
Trước Mẹ chuyển Chung-Hòa Nữ-Đạo,
Để làm gương cải tạo thuần phong,
Tiến lên bước thẳng Đại-Đồng,
Nữ-Đoàn Đại-Đạo kỳ công buổi nầy.
Con một Mẹ, con hay chăng nhỉ?
Tuy khác nhau ý vị không đồng,
Uống ăn nào có khác không?
Khác là mỹ vị, không đồng tương rau.
Nhưng no dạ, dạ nào cũng thế,
Con khôn ngoan tầm kế giúp nhau,
Sổ vàng Mẹ đã ghi vào,
Con Ta trần thế, con nào mất đâu?
Nhưng cao thấp con hầu tu tạo,
Lập kỳ công hoài bảo cho đều,
Lời vàng Mẹ đã đề nêu,
Con Ta thẳng bước cho đều Mẹ đây.
Đời cuối tận nên Thầy mở Đạo,
Để cho con gỡ tháo rối lòng,
Diêu-Điện Mẹ luống chờ trông,
Trông cho con trẻ thoát vòng trần nhơ.
Khai Ngũ-Sắc đúng giờ cứu thế,
Lập Tường-Vân Mẹ hé Thiên-Cơ,
Lục-Diệu Mẹ luống đợi chờ,
Lập thành Nữ-Đạo con thơ hưởng nhàn.
Rồi đây Mẹ truyền ban Nam-phái,
Ngũ-Tường-Quang trọng đại đó con,
Ngày giờ nhặt thúc đâu còn,
Lịnh Trời truyền phán, bảng son đề rành.
Lời Mẹ dạy, con hành tại thế,
Thế lập thành Đạo để lưu truyền,
Con Ta ở chốn trần miền,
Kết thành quả đẹp, con yên lòng phàm.
Nên cổi mở tứ tam thế sự,
Nơi cõi trần vẹn giữ chu toàn,
Điển lành Mẹ đã rưới chan,
Con Ta trần thế được an thân mình.
Đồng tiếp điển, điển linh Mẹ rút,
Chốn trần gian cội phúc con tường,
Giã từ ngọn bút đề chương,
Diêu-Cung Mẹ trở, tiền đường giã con.
Thăng...
(Tiếp điển:)