HUYỀN KHÔNG ĐẠI PHÁP

01 Tháng Ba 20183:26 CH(Xem: 18045)

Third Eye 

 

LÝ DO BÍ PHÁP MẬT TRUYỀN

BIẾN THÀNH CÔNG TRUYỀN

 

Đây là hai bí pháp siêu diệu đúng ra chỉ “mật truyền” cho môn sinh đủ tiêu chuẩn trong cơ tuyển độ.  Nhưng vì lòng từ bi muốn cứu vớt chúng nguyên căn còn đang chơi vơi giữa dòng sinh tử và cũng để tuyển chọn Tân Dân cho kịp kỳ Thánh Đức cận kề nên DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN và ĐỨC HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ đã đích thân khai mở tâm linh và tân truyền bửu pháp vô thượng cho Hoàng Nhị Thiên (Ngôi Hai trào tam) để Đức Ngài hoằng truyền qua phương Tây trong sứ mạng khai mở Quốc Khách Đại Đạo.
 

Vào năm Bính Thân 2016, nơi Tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn ở cao độ 1200m nằm trong vùng xa xôi  hẻo lánh của Trường Sơn Việt Nam, chư giáo sư vô hình của Huyền Không Thiên Thượng theo lệnh Tam Giáo Thánh Tòa đã giáng hạ đạo tràng kề cận Hoàng Nhị Thiên trong suốt quá trình chuyển hóa bản thể và tâm thức để hướng dẫn Đức Ngài tu luyện Huyền Không Bửu Pháp cũng như để giúp khai minh huyền nghĩa của thiên thơ, giám định tiến độ hành trì, ấn chứng công phu viên mãn. 

Nay nương vào oai lực từ bi của Thiên Mẫu, Thiên Phụ, Tam Giáo Tòa và cộng đồng Phật Thánh Tiên của các cung các cõi trong Tam Thiên Thế Giới, Hoàng Nhị Thiên đem bửu pháp vô thượng này “công truyền” trong buổi hạ màn, không phân biệt tôn giáo, tăng hay tục, nam hay nữ, trẻ hay già.  Chỉ cầu mong là bá tánh không phụ lòng từ bi của chư vị trên cõi Huyền Không Thiên Thượng. 

Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.  Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn.  Nam Mô Tam Giáo Thánh Tòa.  Nam Mô Tam Trấn Oai Nghiêm.  Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật. Nam Mô Bửu Sơn Kỳ Hương Phật.

  

 

Hiệp Thiên Huyền Nam PHƯƠNG VŨ, đạo tràng St. Louis, nhận thông điệp Huyền Không Thiên Thượng và gởi đến Đức Ngài ngày 5 tháng 5 năm 2020 lúc 15:15 P.M. US.

 

TÂM HÒA MẪU THẦY


TÂM thành nhơn thiện hướng THIÊN

HÒA chung điển sóng Phật Tiên Thánh Thần
MẪU hoà chan rộng lộc ân
THẦY dung phước đức XUỐNG TRẦN hôm nay.
 
Lộc ân phước đức ngươn này
Sáng tu tánh thiện chiều ngày phước tăng
Báu thân sáng tối cần năng
Hướng tâm kỉnh Phật [và] các hàng Thánh Tiên.


Lòng TỊNH diệt vô minh tầm báu
Ao sen vàng THẦY MẪU truyền trao
TỊNH TÂM HÍT THỞ PHÁP BÀO
NHƯ BÀI THUỐC PHẬT KHỔ ĐAU THOÁT LIỀN.

Trong gương báu MẸ CHA đào luyện
Cẩn trọng tâm THIỀN ĐẠO MA HA
PHẬT VƯƠNG ĐIỂN SÁNG CHAN HÒA
GIẢI DẦN CĂN NGHIỆP ĐỘ QUA KHỔ SẦU.

ĐỘ CHO VẠN LOẠI CHI LOÀI
BẰNG TÂM BỒ TÁT BẰNG BÀI THUỐC TIÊN.
 
[ĐẠI] LA THIÊN hoán TỪ QUANG chiếu điển
PHÁP TỊNH TÂM thiền định thuần đơn
Tập hành HÍT THỞ chơn nhơn
Điều hoà kinh mạch diệt tan bệnh trần.

Tâm trong sáng như hồ nhật nguyệt [phẳng lặng như hồ gương phản chiếu nhật nguyệt]
Bạch Thủy Bình TỊNH PHÁP ÂM DƯƠNG
LÔI ÂM Bạch Thuỷ PHẬT VƯƠNG
THÔNG THIÊN DỊCH THỦY đăng [thăng] đường càn khôn.
 
Bình Tịnh Thuỷ nửa phần DIỆU PHÁP
Nửa phần kia TỰ ĐỘ hoá linh
Tâm thanh thân sạch [phát] QUANG MINH
Cộng chung [trọn] PHÁP ĐẠO thiên tình MẸ CHA.

[BÌNH TỊNH THỦY = BẠCH THỦY BÌNH = ám chỉ bầu tinh dịch thuần khiết. LÔI ÂM PHẬT VƯƠNG BẠCH THỦY = THÔNG THIÊN DỊCH THỦY = ám chỉ tinh dịch thuần khiết.  Đạo gia còn gọi chất liệu luyện đạo này là "linh đơn", là "diệu dược", là "gạo trắng", là "thuốc trường sinh".  Muốn được sự thuần khiết đó thì Tâm phải thanh và Thân phải sạch.]  
 
Công đức nghiệm ứng linh bản thể

Gội hồng trần ô trược từng căn
Từng căn từng gốc từng phần
THIÊN QUANG rửa sạch nghiệp trần hôm nay.

Đức thượng tin hoàn tâm THẦY MẪU
Đợi một bầu ĐIỆN NÃO GIAO THOA
Hướng về BỬU NGỌC CHƠN TÒA [cái đầu của mình]
CHÚNG SANH TỰ TỊNH Thiên Hoa sẵn dành.

 


I. DIÊU TRÌ TỊNH PHÁP

Bất kỳ ai cũng đều có thể áp dụng tịnh pháp này. Người lớn hay trẻ con, cơ thể khỏe mạnh hay đang bệnh tật, cuộc sống tất bật hay thanh nhàn đều có thể áp dụng phương pháp này.  An toàn trong thực hành, hiệu quả trong việc khai mở tâm linh, rất tốt cho sức khỏe nhờ hóa giải phần nào những căng thẳng thường xuyên trong cuộc sống. Đi, đứng, ngồi, nằm đều có thể thực hành. Bất kể giữa đám đông ồn ào hay một mình nơi thanh vắng đều có thể thực hành.  Chỉ cần có một chút chủ tâm muốn thực hành. 

 

GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: LÀM NÓNG CƠ THỂ

Chỉ áp dụng vào mùa lạnh hoặc vào buổi sáng khi cơ thể cảm thấy lạnh.  Không cần thiết cho những thời điểm khác.

Bước 1: Ngửa mặt hả miệng hớp không khí vào nén đầy khoan bụng giữa cho đến khi không thể hớp thêm nữa (thấy tức ở lồng ngực). Không được phình bụng dưới. Giữ ở trạng thái ém hơi cho đến khi không chịu được nữa mới hả miệng thả ra từ từ, rồi thóp bụng đẩy không khí ra ngoài cho tới cạn sạch.

Bước 2: Hít thở bình thường vài ba lần cho nhịp tim bình ổn.

Bước 3: Lập lại bước bước 1 & 2.  Làm 3-5 lần là đủ.

        
Chú Thích:

1) Nén không khí vào khoan bụng giữa giúp khai thông huyệt Nhâm.  

2) Không phình bụng dưới để sau này bụng không bị to.
3) Giai đoạn thứ nhất này giúp kích thích hệ thống thần kinh và một phần não bộ,  có lợi cho sức khỏe và tâm linh.

                                

GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ: HÍT THỞ VÀ ĐI VÀO TĨNH LẶNG

Bước 1: Khép mắt và trụ thần tại Mi Gian vài phút đồng hồ.

Bước 2: Hít hơi thở vào bằng mũi. Lúc hít vào tưởng tượng một luồng KHÍ (luồng năng lượng, luồng điển) từ bên ngoài chạy xuyên qua Mi Gian vào sâu bên trong hộp sọ não.

Bước 3: Thở ra cũng bằng mũi. Lúc thở ra tưởng như luồng KHÍ (luồng năng lượng, luồng điển) từ bên trong hộp sọ não xuyên qua Mi Gian chạy ra bên ngoài không gian.

Bước 4: Lập lại bước 2 và 3.  Lập lại nhiều lần cho đến khi thân tâm chìm vào yên tĩnh.

 

Third Eye 2H1

 

Chú Thích:

1) MI GIAN còn gọi là Tam Tinh ngay khoảng giữa hai đầu chân mày.  Xem hình H1 bên trên. Phía sau Mi Gian (sâu bên trong não bộ 1-1/2 lóng tay) là con Mắt Thứ Ba còn được đạo gia gọi là Thiên Mục, Thiên Nhãn, Chánh Pháp Nhãn Tạng, Huệ Quang Khiếu, Huyền Quan Khiếu...

2) TRỤ THẦN TẠI MI GIAN có nghĩa là hai mắt nhìn chầm chập vào Mi Gian và Ý tập trung vào điểm đó.

3)  Trường độ của hơi thở dài ngắn theo tự nhiên, tùy người. 

4) TÁC Ý DẪN THẦN KHÍ RA VÀO MI GIAN (tưởng tượng luồng KHÍ, luồng năng lượng, luồng điển xuyên qua lỗ trống giữa Tam Tinh) và tiếp tục làm vậy cho đến một lúc nào đó (sau một khoảng thời gian dài hít thở) sẽ tự động chìm vào trạng thái yên lắng (hai mắt vẫn không rời Mi Gian), hơi thở sẽ từ từ nhẹ lại và ngắn lại một cách tự nhiên, càng về sau hơi thở càng vi tế, có lúc dường như không thở nữa, rồi vào trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng (Định).  Được một chập ngắn thì lại tự nhiên ra khỏi trạng thái tĩnh lặng.  Lập lại bước TÁC Ý DẪN THẦN KHÍ RA VÀO MI GIAN cho đến khi chìm vào trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng lần nữa.  Cứ như thế ra/vào trạng thái tĩnh lặng từng chập ngắn cho đến khi xong buổi công phu.  Trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng sẽ dài hơn theo năm tháng tu tập, kéo dài bao lâu tùy theo sự tiến bộ của từng người. Nếu thực sự tĩnh lặng hoàn toàn thì 2-3 tiếng đồng hồ trôi qua tưởng chừng như khoảnh khắc.

4) Không giới hạn thời gian mỗi lần công phu (bao nhiêu phút hay bao nhiêu giờ) nhưng nói chung càng lâu càng tốt. Muốn có kết quả tốt thì phải dành nhiều thời gian để công phu.   

     

GIAI ĐOẠN CUỐI:  17 ĐỘNG TÁC THỂ DỤC

Xem PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC GIA TĂNG SỨC KHỎE nằm ở phần cuối trong trang này.  Nên thực hành ít nhất là một lần trong ngày.  Thực hành sau khi tịnh xong.

   
   

 

II. HUYỀN KHÔNG BỬU PHÁP

Chỉ dành cho người quyết tâm tu luyện, trường trai, tuyệt dục, ngày ngày hành trì miên mật. Nếu không đáp ứng được tiêu chuẩn này thì “không được phép” thực hành.

 

GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: LÀM NÓNG CƠ THỂ

Chỉ áp dụng vào mùa lạnh hoặc vào buổi sáng khi cơ thể cảm thấy lạnh.  Không cần thiết cho những thời điểm khác.

Bước 1: Ngửa mặt hả miệng hớp không khí vào nén đầy khoan bụng giữa cho đến khi không thể hớp thêm nữa (thấy tức ở lồng ngực). Không được phình bụng dưới. Giữ ở trạng thái ém hơi cho đến khi không chịu được nữa mới hả miệng thả ra từ từ, rồi thóp bụng đẩy không khí ra ngoài cho tới cạn sạch.

Bước 2: Hít thở bình thường vài ba lần cho nhịp tim bình ổn.

Bước 3: Lập lại bước bước 1 & 2.  Làm 3-5 lần là đủ.

        
Chú Thích:

1) Nén không khí vào khoan bụng giữa giúp khai thông huyệt Nhâm. 

2) Không phình bụng dưới để sau này bụng không bị to.

 

GIAI ĐOẠN THỨ HAI: ĐỊNH THẦN DẪN KHÍ (LUYỆN)

Bước 1: Mắt khép, trụ THẦN tại Mi Gian, lưỡi cong lên chạm nóc vọng, hơi thở ra vào tự nhiên. Giữ yên lặng như vậy cho đến khi có thể "chú tâm thận trọng quan sát hơi thở" mới bắt đầu bước 2A và 2B.

Bước 2A: Hít hơi thở vào bằng mũi, càm hơi ngửa lên, THẦN theo lực hít vào (lực Hấp) hút luồng KHÍ (luồng năng lượng, luồng điển) từ bên ngoài xuyên qua Mi Gian (huyệt Ấn Đường, giữa Tam Tinh) chừng 1-1/2 lóng tay, rồi THẦN dẫn KHÍ di chuyển dần xuống hướng dưới, ngang qua Thượng Kiều (chỗ đầu lưỡi ép vào nóc vọng), ngang qua cuốn họng, xuống phía dưới nữa dọc theo đường mạch Nhâm (dọc mặt trước của thân), tới Hạ Điền (huyệt Khí Hải), tới bộ phận sinh dục (huyệt Dương Quan), tới hậu môn (huyệt Cốc Đạo), nhíu hậu môn và tiếp tục nhíu hậu môn để tạo lực vượt qua Hạ Kiều (chỗ hậu môn đã nhíu lại) chui vào đầu xương cụt (huyệt Trường Cường, còn gọi Vĩ Lư Quan), rồi đẩy lên trên theo đường mạch Đốc (dọc bên trong cột sống), xuyên qua khỏi chặng giữa cột sống (huyệt Linh Đài, còn gọi Giáp Tích Quan), xuyên qua ót (huyệt Á Môn, còn gọi Ngọc Chẩm Quan), dẫn vào hộp sọ não và vòng lên đỉnh đầu (huyệt Bách Hội), về tới Mi Gian (huyệt Ấn Đường, giữa Tam Tinh).  Tới đây thôi hít vào (Hấp cũng vừa đầy), chuyển sang bước 2B để thở ra (Hô).
 

Bước 2B: Thở ra bằng mũi, THẦN theo lực thở ra (lực Hô) đẩy luồng KHÍ (luồng năng lượng, luồng điển) xuyên qua Mi Gian đi ra ngoài không gian.

Bước 3. Lập lại bước 2A và 2B.  Bước 2A+2B tính là một vòng. Làm tổng cộng 64 vòng (8 lần chuyển Bát Quái).

  
vong-van-hanh-bat-quai

Chú Thích:

1) MI GIAN còn gọi là Tam Tinh ngay khoảng giữa hai đầu chân mày.  Xem hình H1 bên trên. Phía sau Mi Gian (sâu bên trong não bộ 1-1/2 lóng tay) là con Mắt Thứ Ba còn được đạo gia gọi là Thiên Mục, Thiên Nhãn, Chánh Pháp Nhãn Tạng, Huệ Quang Khiếu, Huyền Quan Khiếu...

2) TRỤ THẦN TẠI MI GIAN có nghĩa là hai mắt nhìn chầm chập vào Mi Gian và Ý tập trung vào điểm đó.


    

Yếu Quyết:

1) TIỀN GIÁNG HẬU THĂNG (phía trước thì đi xuống, phía sau thì đi lên).
2) THẦN KHÍ KHÔNG LÌA NHAU. Tức là Ý (sự chú tâm) + SONG MÂU (lưỡng quang tập trung, hai con mắt nhìn vào nơi đó, mắt nhìn vào nơi đó thì THẦN đến nơi đó) + KHÍ (luồng năng lượng vô hình, luồng điển) tuyệt đối không rời nhau. 
3) Hơi thở phải êm (không phát ra âm thanh nặng nề), phải đều (không có lúc nhanh lúc chậm), phải thông (không ngập ngừng) và liên tục (không đứt khoảng).

4) Nên nhớ, khi dụng tâm tác ý, hai con mắt nhìn tới chỗ nào thì THẦN theo tới chỗ đó. THẦN đi tới đâu thì luồng KHÍ đi tới đó. Do đó mới nói THẦN dẫn KHÍ. Phóng tâm hay phân tâm thì không đạt kết quả, do đó mới nói lúc công phu phải "chú tâm và thận trọng".
5) Đừng nhầm lẫn "không khí" với KHÍ. Không khí cung cấp oxygen cho máu, do mũi hít thở. Còn KHÍ là luồng năng lượng vô hình.

 

GIAI ĐOẠN THỨ BA: NGỒI TĨNH LẶNG (TỊNH)

Bước 1: Khép mắt và trụ thần tại Mi Gian vài phút đồng hồ.

Bước 2: Hít hơi thở vào bằng mũi. Lúc hít vào tưởng tượng luồng KHÍ (luồng năng lượng, luồng điển) từ bên ngoài chạy xuyên qua Mi Gian vào sâu bên trong hộp sọ não.

Bước 3: Thở ra cũng bằng mũi. Lúc thở ra tưởng như luồng KHÍ (luồng năng lượng, luồng điển) từ bên trong hộp não xuyên qua Mi Gian phóng ra ngoài không gian.

Bước 4: Lập lại bước 2 và 3.  Lập lại nhiều lần cho đến khi thân tâm chìm sâu vào tĩnh  lặng. Đến một lúc nào đó Thần sẽ tự động dời lên đảnh thượng và trụ ở đó. 

 

Third Eye 2H1

 

Chú Thích:

1) MI GIAN còn gọi là Tam Tinh ngay khoảng giữa hai đầu chân mày.  Xem hình H1 bên trên. Phía sau Mi Gian (sâu bên trong não bộ 1-1/2 lóng tay) là con Mắt Thứ Ba còn được đạo gia gọi là Thiên Mục, Thiên Nhãn, Chánh Pháp Nhãn Tạng, Huệ Quang Khiếu, Huyền Quan Khiếu...

2) TRỤ THẦN TẠI MI GIAN có nghĩa là hai mắt nhìn chầm chập vào Mi Gian và Ý tập trung vào điểm đó.

3)  Trường độ của hơi thở dài ngắn theo tự nhiên, tùy người. 

4) TÁC Ý DẪN THẦN KHÍ RA VÀO MI GIAN (tưởng tượng luồng KHÍ, luồng năng lượng, luồng điển xuyên qua lỗ trống giữa Tam Tinh) và tiếp tục làm vậy cho đến một lúc nào đó (sau một khoảng thời gian dài hít thở) sẽ tự động chìm vào trạng thái yên lắng (hai mắt vẫn không rời Mi Gian), hơi thở sẽ từ từ nhẹ lại và ngắn lại một cách tự nhiên, càng về sau hơi thở càng vi tế, có lúc dường như không thở nữa, rồi vào trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng (Định).  Được một chập ngắn thì lại tự nhiên ra khỏi trạng thái tĩnh lặng.  Lập lại bước TÁC Ý DẪN THẦN KHÍ RA VÀO MI GIAN cho đến khi chìm vào trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng lần nữa.  Cứ như thế ra/vào trạng thái tĩnh lặng từng chập ngắn cho đến khi xong buổi công phu.  Trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng sẽ dài hơn theo năm tháng tu tập, kéo dài bao lâu tùy theo sự tiến bộ của từng người. Nếu thực sự tĩnh lặng hoàn toàn thì 2-3 tiếng đồng hồ trôi qua tưởng chừng như khoảnh khắc.

4) Không giới hạn thời gian mỗi lần công phu (bao nhiêu phút hay bao nhiêu giờ) nhưng nói chung càng lâu càng tốt. Muốn có kết quả tốt thì phải cố gắng.  

    

GIAI ĐOẠN CUỐI:  17 ĐỘNG TÁC THỂ DỤC

Xem PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC GIA TĂNG SỨC KHỎE nằm ở phần cuối.  Thực hành mỗi lần ngồi tịnh xong.

 

CẤM THỰC HÀNH HUYỀN KHÔNG BỬU PHÁP NẾU CHƯA TRƯỜNG TRAI TUYỆT DỤC ĐƯỢC.  CHỈ DÀNH CHO ĐẠI CĂN QUYẾT TÂM TU HÀNH.  CŨNG CẦN CÓ MINH SƯ CHỈ ĐIỂM.  NẾU NHÂN DUYÊN ĐÃ ĐỦ XIN LIÊN LẠC VỚI GIÁO HỘI THIÊN TRƯỜNG, Email lienkyhaihoi@gmail.com

   

     
   
 
III. MƯỜI BẢY ĐỘNG TÁC THỂ DỤC


1. Chà Mắt: Hai bàn tay chà vào nhau cho nóng lên rồi úp hai lòng bàn tay vào hai mắt rồi vuốt dài ra phía sau tai. Làm khoảng
5-10 lần.

2. Chà Mặt: Hai bàn tay chà vào nhau cho nóng lên rồi úp hai lòng bàn tay vào hai bên mũi rồi vuốt dài ra phía sau tới ót, rồi đầy lên. Làm khoảng 5-10 lần.

3. Chà Đầu: Hai bàn tay đẩy từ dưới mặt lên đầu ra sau ót.

4. Chà Tai:  Dùng hai ngón cái và trỏ nắm hai tai chà vuốt nhè nhẹ nhiều lần.

5. Đánh Trống Trời Triệu Thần Vào Đảnh Nội: Áp hai bàn tay vào hai tai để bịt kín, hai ngón trỏ và giữa của hai bàn tay búng vào sau ót. Sẽ nghe âm thanh như tiếng trống. Làm 36 lần. Phải làm!

6. Bầm Vai: Dùng hai sóng bàn tay bầm hai bên ót xuống tới vai nhiều lần.

7. Vặn Người: Lấy bàn tay trái đặt trên vai phải. Lấy bàn tay phải, nằm lòn phía dưới cánh tay trái, nắm lấy vai trái kéo thân người xoay về phía phải. Làm ngược lại để xoay về phía trái. Lập lại 3 lần.

8. Xoay Đầu: Hai tay ôm vòng trước ngực. Cổ rút lại như cổ rùa. Càm chạm ngực. Xoay đầu tròn trên vai theo chiều kim đồng hồ 10 lần, ngược chiều kim đồng hồ 10 lần. Xong ngưởng đầu lên rồi cuối đầu xuống 10 lần. Lập lại 3-4 bộ.  

9. Chà Lưng: Dùng bàn tay trái chà lưng 18 lần vùng huyệt Giáp Tích, trong khi tay phải nâng cùi chỏ của cánh tay trái lên hướng trên trời. Xong chuyển qua tay phải cũng chà 18 lần.

10. Xoay Vai: Hai vai xoay vòng ra phía trước 18 lần, xong vòng ra phía sau 18 lần. Làm thật mạnh. Giúp khai mở huyệt Giáp Tích.

11. Chà Thận: Hai bàn tay chà vào nhau cho nóng rồi úp lên hai bên thận, chà lên chà xuống thật mạnh. Bàn tay chạm da bên trong chứ không phải áo quần bên ngoài. Làm 36  lần. Sẽ trợ thận và giúp cơ lưng khỏe lại.  

12. Xuống Hang Đuổi Rắn Ra Khỏi Động: Lấy một ngón tay chà lên xuống dọc theo xương cùn tới thắt lưng 5-7 lần. Đừng chà mạnh quá da sẽ bị thương tổn. Phải làm!

13. Chèo Ghe: Hai bàn tay mở ra như cầm mái chèo, hai cánh tay từ vị trí hai vai đưa lên qua khỏi đầu, rồi người chồm ra phía trước, rồi kéo hai bàn tay về gần ngực, tức là khi nhìn ngang sẽ thấy hai bàn tay chuyển động thành hai vòng tròn song song. Toàn bộ động tác giống như chèo ghe.

14. Bướm Quạt Cánh: Áp hai lòng bàn chân vào nhau. Dùng hai bàn tay giữ chặt. Hai đầu gối nâng lên hạ xuống như hai cánh bướm đang quạt. Làm càng mạnh càng nhiều càng tốt, 100-200 lần.  

15. Chà Lòng Bàn Chân: Dùng bàn tay phải chà vào lòng bàn chân trái và ngược lại. Mỗi bên 18 lần.

16. Thông Kinh Giản Cốt: Tư thế đứng. Hai tay giơ thẳng lên trời, ngón cái và ngón trỏ của hai bàn tay chạm nhau làm thành hình tam giác và hai lòng bàn tay hướng về phía trước. Đẩy hai tay lên cao làm cho xương sống giản ra, gót chân không nhón.

17. Đập Vai: Tư thế đứng. Lấy tay phải đập mạnh vào vai trái và lưng bàn tay trái đập vào thận phải.  Chuyển qua lấy tay trái đập mạnh vào vai phải và lưng tay phải đập vào thận trái. Làm liên tục ít nhất 50-100 lần. Giúp kích hoạt huyệt Giáp Tích và giúp cho khỏi mi cổ.

 

IV. THIÊN THƠ CHỈ DẪN TU LUYỆN


Hiệp Thiên Huyền Nam PHƯƠNG VŨ, đạo tràng St. Louis, nhận thông điệp Huyền Không Thiên Thượng và gởi đến Đức Ngài ngày 3 tháng 5 năm 2020 lúc 07:10 A.M. US.

 

THIÊN ĐẠO VÔ VI

 

THIÊN Nam lố bóng thái bình phong
ĐẠO khách NGỌC [ĐẾ] đang [thức] tỉnh đại đồng
VÔ tướng vô hình THIÊN THƯỢNG TỔNG
VI HUYỀN PHÁP DIỆU SÓNG HUYỀN KHÔNG.

[Khoán Thủ: Thiên Đạo Vô Vi Huyền Pháp: Diệu Sóng Huyền Không]

Thế giới ngày nay bóng rạng đông
Đường đi kinh tuyến ĐẠO nơi LÒNG
Tâm chơn huệ ngộ THIỀN THIÊN SÓNG
Điển MẪU ấn THẦY Đạo Pháp KHÔNG.

[Pháp Ấn của Thiên Đạo Huyền Không bao gồm trong một chữ KHÔNG.]
 

ĐẠO HUYỀN KHÔNG diệu huyền chơn tánh
TÂM ĐẠI TỪ định tịnh căn tiên
Thân tâm THIỆN HẠNH điển thiền
Thay căn chuyển nghiệp chung riêng từng thời.

Tâm pháp đạo ĐIỂN THIÊN TIÊN ĐẠO
Tĩnh lặng thiền chơn thức Hoàn Nê
Điều hoà vận chuyển đan châu

Thoát mê trần thế địa cầu khai thông.


[Hoàn Nê = Nê Hoàn Cung = nơi trung khu của cái đầu.  Đan = đơn = đơn dược = thuốc tiên.  Châu = chu = vòng chu kỳ = vòng luân xa = vòng vận hành hơi thở nối liền hệ thống Nhâm Đốc mạch.]
 

Tự tịnh thức thân tâm thường chuyển
Đổi sóng từ [trường] điện não phát quang
Tĩnh thần hít thở thông [tam] quan
Điều hoà lực chuyển [lên] Nê Hoàn trung ương.
 
PHẢI KHAI SÁNG TRUNG CUNG ĐỒ NÃO
Tịnh pháp đàng [đường] kim ấn bửu phang
Dọc ngang các tuyến Tuỳ [tuyến] Tùng
Trung ương thể tịnh Cửu Cung thoát trần.
 
PHÁP TỊNH bế [đóng] Điền quan nhất thể

Thả châu lưu trung tuyến Điền Đan

Khí trời đang tựu cung này
Giữ nguyên một chỉ hướng Thiên Thượng Đình.

 
[BẾ ĐIỀN QUAN = bế ải Hạ Đan Điền không cho tinh khí tẩu lậu ra ngoài nữa = diệt dục = đạo gia còn dùng ẩn ngữ như là "bế Thanh Long", "trảm Bạch Hổ", "đốt cội tùng".  ĐIỀN = thì gồm có tam Điền là Thượng Đan Điền (phần đầu), Trung Đan Điền (phần ngực) và Hạ Đan Điền (phần bụng dưới).  QUAN = gồm có 3 Quan là Vĩ Lư Quan (đầu xương cụt), Giáp Tích Quan (sau lưng ngang Chấn Thủy) và Ngọc Chẩm Quan (sau ót).  Chữ quan trong câu Bế Điền quan chỉ có ý nghĩa là bế cổng ra vào, không có ý nói đến ba Quan vừa giải thích.  THẢ CHÂU LƯU TRUNG TUYẾN ĐIỀN ĐAN = Dẫn hơi thở ngay đường chính giữa thân mình (chính giữa của bên phải và bên trái) đi xuyên qua các Đan Điền.  Câu này và hai câu dưới nói từ Thượng Đình (cái đầu) dẫn Luân Xa theo mạch Nhâm Đốc trở về lại Thượng Đình theo mạch Đốc (yếu quyết tiền giáng hậu thăng). Dẫn Luân Xa = Thả Châu Lưu = Vận Chuyển Đan Châu = Chuyển Càn Khôn = Vận Hành Càn Khôn = Xoay Bát Quái đều là nói cùng một việc.] 

 
Tập điều tiết thần châu não điện
Thoát thân phàm hiệp nhất thân Tiên
Xung quanh hàng xóm láng giềng
Càn khôn chuyển thế hiện liền Phật Tiên.
 
PHÁP THIỀN ĐỊNH liên ninh cung MẪU
BỬU PHÁP này NGỌC ĐẾ chuyển xoay
Vận hành thông thoáng Khôn Càn
Tâm duy đáo lịnh LINH ĐAN hiện hình.

 
 

Hiệp Thiên Huyền Nam PHƯƠNG VŨ, đạo tràng St. Louis, nhận thông điệp Huyền Không Thiên Thượng và gởi đến Đức Ngài ngày 1 tháng 5 năm 2020 lúc 18:01 P.M. US.

 

THIÊN THƯỢNG LỊNH HÓA

 

THIÊN BÌNH TÂN QUỐC LIÊN TÒA
THƯỢNG TÔN ĐẠI ĐẾ THIÊN HOA ấn bài
LỊNH trên đưa xuống ĐỨC NGÀI
Hoá duyên trần thế lập đài Thượng Ngươn.


[Thượng Tôn Đại Đế = Thượng Đế của Đại La Thiên = Thiên Hoa Đại Đế = Huyền Khung Thượng Đế = Huyền Thiên Thượng Đế = Chúa Thánh = Thánh Hoàng ... ĐỨC NGÀI HÓA DUYÊN TRẦN THẾ = Đức Ngài nhận lịnh lập đài Thượng Ngươn hóa duyên trần thế.]

 
Lực truyền HUỲNH ĐẠO BỬU SƠN
Đồng liên tiếp SÓNG THIÊN [để] quờn đại căn
ĐẠI ĐẠO tập hạnh chuyên cần
Hoà chung thể [thất] đại từng phần ngộ TÂM.
 
Nhận luôn điển sóng dương âm
Nhiều tầng nhiều cõi xuyên tầm không gian
Điển THIÊN tay ẤN pháp ban
Tam miền thất đại lạc an nhân loài.

Điển xuất điểm THÂN TÂM HUYỂN HÓA
PHÁT SÓNG TỪ tiếp nhận bá gia
Từng làn hơi thở thể hoà
Nơi nguồn chơn lực TINH HOA HỘI VỀ.
 
Đầu khai điểm nhơn gian thời đến
Tích [lũy] từng hơi thở nối Khôn Càn
Bát Quái chuyển dịch dọc ngang
Cung tròn võ trụ tuần hoàn châu lưu.
 
TẦN SỐ PHẢN CHIẾU TÂM TỪ
PHẬT THIÊN vận chuyển pháp tu kỳ này
Hướng tầm thuyền đạo MẪU THẦY
Chúng sanh tự tĩnh PHÁP xây CĂN thiền.
 
Cùng chung cung cõi Thiên Tiên
Bá gia đến đặng phước biên NGỌC HOÀNG

Linh căn chứng ngộ lễ bàn
Hoà chung THIÊN ĐẠO hiệp đàng [đường] Phật Tiên
PHẬT BÀ KIM MẪU HIỆN TIỀN
THANH ÂM SẮC TƯỚNG ĐỦ DUYÊN GẶP THẦY.
 

[Phật Mẫu Diêu Trì hiện đang có mặt dưới thế gian bằng xương bằng thịt và đã hội ngộ với kim thân Thầy Thượng Đế (Đức Ngài) cùng hội hiệp với chư Phật Thánh Tiên (hữu hình và vô hình) nơi Giáo Hội Thiên Trường hoằng dương THIÊN ĐẠO].

  
Tay ấn sắc NGỌC ba chữ ĐẠI
Thể THIÊN hoà BẠCH NGỌC chuyền đai
Thuận trên Thiên Điển ĐỨC NGÀI
[tại] Thế gian tiếp nhận [để] chuyển xoay địa cầu.
 
Câu CHÍ ĐẠO HIỆP HÒA NHÂN THẾ
ĐẠO XÂY ĐỜI TỊNH TIẾN PHÁP VỀ [tịnh pháp tiến về]
Cảnh Tiên ấn sắc bồ đề
Chuẩn thông TAM GIÁO mọi bề tâm chơn.
 
Cầu THIÊN-PHẬT đạo hoà nhân địa
Ứng linh căn thường chuyển tâm minh
Pháp duyên đạo đức sửa mình
Chúng sinh Thế Đạo hỏi sinh nơi nào?
 
Bài binh pháp từng nơi diệu lý
[Giáo Hội] Đứng TRUNG CUNG DIỄN TRẬN thời nay
PHẬT TIÊN BAN ẤN BỬU BÀI
HUỆ TÂM ĐỨC HẠNH THÌ VỀ TRƯỜNG THIÊN [GIÁO HỘI]
Dự thi phước huệ hiện tiền
LONG HOA chấm điểm Phật Tiên Thánh Thần
Hiệp phân cội gốc nguyên căn
LONG VÂN ĐẠI HỘI ĐỨC ÂN NGỌC HOÀNG
CHỦ KHẢO bút mực pháp đàn
LIÊN SƠN trung chuyển các hàng vô vi.

 
[Ngọc Hoàng Thượng Đế là Chánh Chủ Khảo của Hội Long Vân. Còn Sách Trời (bút mực pháp đàn) của Tam Giáo (Liên Sơn) là nhằm xoay chuyển các hàng vô vi về dự thi.]

  
DIÊU TRÌ, PHẬT TỔ, PHẬT THẦY
PHẬT VƯƠNG DI LẠC ĐÔNG TÂY HIỆP VỀ
Đúng ngôi TAM GIÁO ra đề
THI NHÂN TÁNH HẠNH bồ đề tâm thân
Rồi xem thiện tánh cận lân
Các hàng chư Phật các tầng Thánh Tiên
CÁC CUNG GIÁO ĐẠO HẠ ĐIỀN
TỪ TRÊN THƯỢNG GIỚI TỚI MIỀN CÀN KHÔN
Trực chỉ các điển cổng môn
TAM THIÊN THẤT ĐẠI LINH TÔN THIÊN ĐÌNH.

 

Các hàng Chư Thánh THIÊN bình [phán rằng]
Tông môn phái đạo phải nghinh phải trình
CÁN CÂN TAM GIÁO THIÊN BÌNH
LIÊN SƠN TÂN QUỐC CHIẾU MINH BỬU HUỲNH
CẦM CÂN MỰC THƯỚC OAI LINH
PHẨM CUNG TẠI THẾ CHÚNG SINH THÁI BÌNH.

 
 


Hiệp Thiên Huyền Nam PHƯƠNG VŨ, đạo tràng St. Louis, nhận thông điệp Huyền Không Thiên Thượng và gởi đến Đức Ngài ngày 2 tháng 5 năm 2020 lúc 18:40 P.M. US.

 

ĐẠI HIỆP THIỀN THIÊN

 
ĐẠI ĐỒNG tự tĩnh trí tâm thành
HIỆP NGỘ ĐẠO THẦY SÁNG RẠNG DANH
THIỀN ĐẠO tu hành hàng Phật Thánh
THIÊN TIÊN nguyên thể ngọc châu dành.

 

[Khoán thủ: Đại Đồng Hiệp Ngộ Thiền Đạo Thiên Tiên.]

 
Bến thuyền giác ngộ đạo đời nay
Ngươn Thượng tầm thêm diện Phật Đài
Chọn cách tự tu thiền tân [mới] [thời] đại
Sóng từ trường điện não THIÊN khai.

Chấp đoạn LINH HỒN sách cổ xa
Xưa kia kinh sách đã quá già
Luận nhiều từ [ngữ] Đạo chưa tròn nghĩa
Ngươn Thượng kỳ này diễn rộng ra.

 
[Ý nói những từ ngữ dạy Đạo có từ xa xưa như là chữ "linh hồn" nay đã quá lạc hậu vì thời đó nhơn loại chưa đủ trình độ để hiểu và chưa có ngôn ngữ để diễn tả, bây giờ cần phải diễn rộng ra theo hiểu biết của nhân loại ngày nay về tần số điển quang trên nền tảng khoa học lượng tử.]

  
LINH HỒN Ngươn Thượng [này] được thay tên [là]
SÓNG ĐIỆN TỪ TÂM NÃO nối miền
Tần số vận hành hoà thất đại
Điển trường lượng tử tái MINH THIÊN.
 

[Minh Thiên = Một thiên danh của Huyền Thiên Thượng Đế.]

 
Kim thân hoà thể không gian
Điển tâm kết nối đại ngàn càn khôn
Giao thoa tần số bảo tồn
Cùng chung bước sóng qui môn một đàng.
 
Khi tích tụ ĐỦ DUYÊN THUẬN NGHIỆP
CÁC SÓNG TỪ chuyển đến địa tiên
Đúng thời thất đại châu liên
ĐIỂN QUANG HOÀN LẠI đại miền lục châu.
 
Phải tu học tự tâm THIỀN ĐIỂN
ĐẠO MẪU THẦY hoán chuyển căn duyên
Từng phần thân thuộc láng giềng
Thân quen phụ mẫu chung riêng hiệp trần.
 
Nơi giáng hạ ĐỦ DUYÊN ĐỦ PHƯỚC
Thọ lầu đài phẩm chức cao sang
Tiền căn điển đạo NGỌC HOÀNG
Tiên Gia , Thánh Chúng, các hàng Chơn Nhơn.
 
Có những nơi thân phàm khổ não
ĐỌA PHÀM TRẦN bần tiện thấp hèn
BỞI CĂN TIỀN ĐIỆN NÃO DỌC NGANG
SÓNG TÂM NÃO KHÔNG HÒA THỂ TÁNH.
 
Xa xôi lắm mới về cung phẩm
Tiếp SÓNG TRƯỜNG VÕ TRỤ dài lâu
TẬP TU TẠI CHỐN VÔ HÌNH
ĐẾN KHI ĐIỂN MẠNH mới xin NGỌC HOÀNG
MỞ TÂM KHAI ĐIỂN các hàng
Phật Tiên Thần Thánh phục ban điển phần
Rồi theo HỌC ĐẠO TIẾN DẦN
MẸ CHA dạy bảo THẬP TAM tấu trình
Cung nghinh các đấng THƯỢNG LINH
PHẢI THI nhiều cổng Sân Trình trường an
Rồi qua kinh giác Tây đàng [Tòa Đình California]
LIÊN SƠN BỬU NGỌC hoàn đan hiện trần.
   
Chưa kể hết TRÊN ĐƯỜNG XUỐNG THẾ
Phải qua nhiều lớp Cổng, Điện, Cung
Đến qua điển sóng Cửu Trùng
Hiệp qua TAM GIÁO tới vùng Địa Tiên
Học tu hạnh đức Hoa Liên
Thân tâm tái hợp chánh biên NGƯỜI PHÀM.
 
Bởi biết thế MẸ CHA Ngươn Thượng [này]
MỞ GIÁO TRƯỜNG Thiên Địa hiệp thương
LIÊN KỲ HẢI HỘI CA LI  [California]
Sông Đầm Đạo Bổn HƯƠNG KỲ BỬU SƠN.

Hai Địa Điện [2 Tòa Đình] cùng nhau dạy Đạo
Điển sóng từ tần số hai mười [20Hz = sóng 20 chu kỳ]
Điển Thiên giáo lý khuyên lời
Tịnh tu BẠCH NGỌC giúp đời thoát mê.
 
THIÊN SƠN CẤM ĐÃ DỜI CHỖ MỚI
Bởi lớp nàn thay đổi không gian
Ngẫm tìm xem đổi thay đàng
Bởi THẦY có lịnh sửa sang nhơn trần.
 
Khuyên nam nữ đồng tu thiện trí
Thức tâm THIÊN tầm ĐẠO CÀN KHÔN
Ngày xưa Phật Thánh Tiên Thần
Mỗi bên một ý tự phân chia phần.

 
Nay TAM THẬP THƯỢNG TẦNG khai bổn
Đổi chuyển rồi LẬP MỚI ĐẠO THIÊN
Hoàn nguyên tánh thể căn tiền
Không gian võ trụ hướng THIÊN THƯỢNG HOÀNG.

 
[TỪ ĐOẠN NÀY TRỞ XUỐNG NÓI VỀ 13 THƯỢNG THÁNH VÀ HIỆN NAY KIM THÂN CỦA CÁC VỊ ĐANG CÓ MẶT DƯỚI THẾ GIAN VÀ LÀ NGƯỜI VIỆT.]

  
THIÊN NGỌC BẢO là hàng Thứ Nhất
Nhị Đại Thiên MINH BẢO HỒNG LIÊN
Tam Thiên CHƯỞNG GIÁO ĐÀI THIÊN
Tứ Thiên NHIẾP CHÁNH BẢO LIÊN SƠN đồng.
 
Ngũ Thiên thượng vị ĐẠO KHÙNG
Lục Thiên Bảo [Bửu] Đại La Trung Thiên Đài
Thiên Thứ Bảy là ÔNG SƯ VÃI
Cửa Bát Thiên PHẬT TỔ NHƯ LAI
CHÚA CON Thiên Cửu Thánh Đài
Thập Thiên TỨ THÁNH bảo khai Nam Trào.

Thiên Mười Một là ÔNG TỨ BẢO
Thập  Nhị Thiên  là chỗ giao thoa
Cộng chung các vị BỒ [TÁT][PHẬT] ĐÀ  
Thập Tam thị hiện Bửu Toà Càn Khôn.
 
Phân thứ cấp [gởi] đến [cho] người đời hiểu
Chứ Phật Tiên nào có thấp cao
Anh em đồng đạo đồng bào
Đạo chung một cội gốc nào gốc riêng?
 
Kỳ thay chuyển đổi hồn xác mới
Tánh phàm trần lọc bỏ từ năm
Hai mươi bước sóng [20Hz] truy tầm
Khải kê các pháp sơn lâm giáng trần.




V. TRẢI NGHIỆM CỦA ĐỨC NGÀI
  

CHỨNG ĐẠO CA   

Càn Khôn vận chuyển ngày bốn bận
Bát Quái xoay xong đúng tám vòng
Thần Khí theo nhau hình với bóng
Thiên Xa mở lối thiết hầu công.
 
Thiên Xa tiến xuống xuyên Tam Địa 
Vượt cầu lên đảnh phá Tam Quan
Nhập Đại La Thành vào cung Quảng
Ngắm Trăng vằng vặt giữa Huyền Quan.
 
Chính Môn [Ngọ Môn] cửa lớn cứ vào ra
Lâu dần cũng gặp Đế Đại Hoa 
Mặt Trời đấp chiếu trong cung thẩm
Đăng triều Trời xin cưới Hằng Nga. 
 
Nhật Nguyệt tịnh minh Đại Chiếu Minh
Huyền huyền diệu diệu cõi hư linh
Chơn như diệu giác gì gì đó 
Cũng là vắng bặt chư pháp sinh.

  

[CỬU KHIẾU (9 Huyệt): Người đời nói Cửu Khiếu là nói 9 lỗ gồm 2 mắt, 2 tai, 2 mũi, miệng, hậu môn, âm môn. Còn người luyện đạo nói Cửu Khiếu là nói tới 9 huyệt đạo quan trọng nằm dọc mạch Đốc.  Cửu Khiếu còn được gọi là Cửu Cổ (9 cái trống) bao gồm Phục Cổ (huyệt Ngọc Chẩm), Long Cổ (huyệt Thiên Trụ), Bạch Cổ (huyệt Cốc Đạo), Nhục Cổ (huyệt Thần Đạo), Xích Cổ (huyệt Giáp Tích), Cách Cổ (huyệt Huyền Môn), Phế Cổ (huyệt Mạng Môn), Vị Cổ (huyệt Long Hổ), Khương Cổ (huyệt Vĩ Lư).   TAM QUAN (3 ải): Gồm Vĩ Lư Quan, Giáp Tích Quan và Ngọc Chẩm Quan.  TAM ĐIỀN/ TAM ĐỊA (3 vùng): Thượng Điền (vùng đầu), Trung Điền (vùng ngực), Hạ Điện (vùng bụng dưới).]

 
 

Tinh Hoa Hiệp Thiên_A tại miền Tây nhận thông điệp và đã gởi tới Người ngày 17 tháng 1 năm 2017 (ngày 20 tháng 12 Bính Thân).

   

THIÊN KHỐ HỒNG ÂN


Khai Trung Địa Càn Khôn vạn đại

Nhập Đại Thành chỉ đặng Thiện Nhân

Đất Việt minh chín nhánh Đại Hà

Mời chư Tát Ma Ha về gặp.

 

[Khai Trung Địa, Càn Địa, Khôn Địa = phía trước dọc Mạch Nhâm khai Trung Điền (vùng ngực), Thượng Điền (vùng đầu), Hạ Điền (vùng bụng) và phía sau dọc Mạch Đốc khai Vĩ Lư Quan (đáy cột sống), Giáp Tích Quan (giữa cột sống), Ngọc Chẩm Quan (đầu cột sống). 

Nhập Đại La Thành = vào Cửu Trùng Đài = vào 9 Cung trong não bộ. 

Minh chín nhánh Đại Hà = Cửu đạo minh.  Trong kinh Hùynh Đình, phẩm Hô Hấp, có câu "Tam khí hữu hối, cửu đạo minh".  Tam khí là tam điền chi khí = Thái Nguyên, Thái huyền, Thái tổ chi khí. Vận khí đó trong Đốc Mạch thì là Tả Huyền, trong Nhâm Mạch thì là Hữu Hối. Tử Hà giải: Đốc Mạch sau lưng là Cửu Khúc Hoàng Hà, Nhâm Mạch đằng trước là Cửu Khúc Trường Giang ... mọi đường lối đều phân minh. Vụ Thành Tử giải: Cửu đạo minh = Cửu Khiếu thông lưu.
 
Nhâm Mạch và Đốc Mạch là đường Âm Dương thăng giáng nên còn gọi là Đạo Lộ. Nhâm Mạch là mạch quản các mạch âm. Đốc Mạch là mạch quản các mạch dương. Hai mạch nầy rất quan hệ đến cơ sanh tử của con người. Cơ thể của người thường, Mạch Nhâm ở phía trước bụng, từ Yết Hầu qua Trung Điền xuống tới Hội Âm (khoảng giữa bộ phận sinh dục và hậu môn).  Đốc Mạch ở phía sau lưng, từ huyệt Cốc Đạo (hậu môn) lên tới Nê Hườn Cung  rồi xuống tới Huyền Ưng (ngang sóng mũi). Hai mạch nầy có hai chỗ đứt đoạn: một ở miệng, một ở cốc đạo (hậu môn), cho nên sự sanh hóa mất căn bản.  Công phu luyện đạo chủ trương "nghịch chuyển Hà Xa" để chiết Khảm điền Ly phục vị Càn Khôn như thuở Tiên Thiên.  Bốn chữ "nghịch chuyển Hà Xa" thường bị hiểu sai. Hà Xa là phương pháp dẫn KHÍ luân chuyển nối liền hai mạch Nhâm Đốc (có người còn gọi là Chuyển Pháp Luân hay Vận Hành Càn Khôn hay Xoay Bát Quái). Hà Xa giúp người tu "nghịch chuyển" tinh khí không cho thoát ra phía dưới theo nhu cầu giải phóng năng lượng dục tính tự nhiên mà làm cho nguồn năng lượng này thăng hoa để hóa KHÍ, hườn THẦN.  

Vậy Cửu Khiếu là gì?  Cửu Khiếu là 9 lỗ.  Người thường khi nói Cửu Khiếu là nói 2 mắt, 2 tai, 2 mũi, miệng, hậu môn, âm môn.  Còn người tu nói Cửu Khiếu là nói tới 9 vị trí quan trọng nằm dọc mạch Đốc.  Đốc mạch có tam quan là: vĩ lư, giáp tích và ngọc chẩm. Mỗi quan ải có 3 khiếu nên 3x3 gọi là Cửu khiếu hay Cửu Khúc Minh Châu.  Cửu Khiếu còn được gọi là Cửu Cổ (9 cái trống) bao gồm Phục Cổ (huyệt Ngọc Chẩm), Long Cổ (huyệt Thiên Trụ), Bạch Cổ (huyệt Cốc Đạo), Nhục Cổ (huyệt Thần Đạo), Xích Cổ (huyệt Giáp Tích), Cách Cổ (huyệt Huyền Môn), Phế Cổ (huyệt Mạng Môn), Vị Cổ (huyệt Long Hổ), Khương Cổ (huyệt Vĩ Lư).

Còn Cửu Cung là gì?  Là 9 cung nằm trong não bộ, là Cửu Trùng Đài, là Đại La Thành.  Chín cung phân chia như thế nào, nằm ở vị trí nào trong não bộ? Căn cứ theo Huỳnh Đình Kinh thì từ Tam Tinh (huyệt Mi Gian, Ấn Đường) sâu vào 3 phân là Thủ Thốn (điểm chuẩn). Từ Thủ Thốn sâu vào 1 thốn là Minh Đường, vào 2 thốn là Động Phòng, vào 3 thốn là Đan Điền (Nê Hoàn), vào 4 thốn là Lưu Châu, vào 5 thốn là Ngọc Đế, trên Minh Đường 1 thốn là Thiên Đình, trên Động Phòng 1 thốn là Cực Chân, trên Đan Điền 1 thốn là Huyền Đan, trên Lưu Châu 1 thốn là Thái Hoàng. Kiến giải cá nhân: "minh chín nhánh Đại Hà" là làm cho khí tự do lưu thông trong Nhâm Đốc như dòng chảy của Đại Hà làm sáng 9 Cung trên não bộ. 
 
Bốn câu trên nói: Khai mở được Tam Điền (mạch Nhâm) & Tam Quan (mạch Đốc) để nhập Đại La Thành (Cửu Cung) thì được vĩnh hằng.  Chỉ (trỏ, báo) cho biết là “thiện nhân Đất Việt” [ám chỉ Đức Ngài] đã "minh 9 nhánh Đại Hà" rồi.  Xin mời được chư Bồ Tát về gặp mặt.]

 

Nam Quốc bản đại xoay Thánh Giới

Gởi chư hầu, chào bát vi căn

Gởi Càn Khôn, THIÊN KHẢM [HUYỀN THIÊN][đã] chứng thành

Kho báu lớn uy nga mở bán [đã sẵn sàng để hoằng đạo].

  

Vừa hé lộ Cơ Thiên trên giấy

Dịch Thần Cơ bút pháp ghi bày

Giải cơ này có được Thầy hay

Phổ điển lạ thuyết minh ấn ký.

  

Ngồi trực chiếu chỉ Thiên thọ ký

Luyện Đồ Thơ vừa đúng Thiên Khai

Chiếu ghi tên sách sử Huỳnh Kỳ

Bút ghi rõ Vạn Cầu Thủy Tổ.

 

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn