5. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, ĐẠI NGHĨA MINH THIÊN
Có rất nhiều sấm ký đã huyền khải sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam. Văn bản của đàn cơ Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967 ghi:
"ĐÃ TUYÊN BỐ MỘT LỜI: THƯỢNG ĐẾ [đã một lời tuyên bố rằng]
QUYẾT XUỐNG TRẦN CỨU THẾ KỲ BA [Thượng Đế quyết xuống trần lần ba cứu thế]
PHƠI BÀY CHÍ ĐỨC VỊ THA [phơi bày chí đức]
CÔNG BÌNH BÁC ÁI ĐEM RA KHỎA LÒNG." [vị tha, công bình, bác ái đem ra khỏa lòng]
[Khoán: Thượng Đế Quyết Xuống Trần Cứu Thế Kỳ Ba.]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 7, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
KỲ BA đôi khi được hiểu là kỳ Hạ Ngươn trong tam ngươn. Nhưng trong các sấm ký thường thì chữ "Kỳ Ba" hay "Kỳ Tam" hay "Trào Tam" hay "Quyển Ba" (màn Ba) là nói về "lần thứ ba" xuống thế của Ngọc Đế. Còn nói TAM KỲ thì nên hiểu là "3 kỳ" xuống thế của Đế Bạch Ngọc Cung. Tuy phân định KỲ BA với BA KỲ nhưng khi nói "ba kỳ xuống thế" thì cũng đã bao hàm "xuống thế kỳ ba" rồi. Chỉ khi nói TAM KỲ PHỔ ĐỘ thì mới là nói ba kỳ phổ độ; Nhiên Đăng Cổ Phật thời nhứt kỳ phổ độ, Thích Ca Mâu Ni thời nhị kỳ phổ độ, Cao Đài Tiên Ông thời tam kỳ phổ độ, còn Di Lạc Phật Vương là thời Huỳnh Đạo lập đời Thánh Đức Tân Dân. [Chú giải của người soạn.]
Trong Tam Nhật Đàn Thầy Thượng Đế đã giải thích rõ: "Đến ngày THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, đó là [ngày] KHAI GIÁO ĐẠO HUỲNH, thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần xuống thế mà thống nhất hòa bình, năm châu cùng vũ trụ, [rồi] Thầy mới đem BIỂU HIỆU CAO ĐÀI mà truyền lưu cõi thế, các con không thông căn Đạo, không tìm hiểu được Thiên Cơ, tưởng lầm CAO ĐÀI [TAM KỲ PHỔ ĐỘ] truyền đạo Năm Châu Thống Nhất hoàn cầu. Chưa được! Vì Cao Đài [Tam Kỳ Phổ Độ] là cơ hữu hình đâu có Phật Thánh Tiên mà thống nhất, đâu có Phật Thánh Tiên mà lập Bát Môn Đồ Trận. (Trích Dẫn 3, trang 5, Tam Nhật Đàn). "... cho nên CAO ĐÀI là CƠ PHỔ ĐỘ không có lập đời. Còn lập đời là HUỲNH ĐẠO, là CƠ VÔ VI, là Phật Thánh Tiên xuống thế lập đời mới được..." (Trích Dẫn 4, trang 6, Tam Nhật Đàn). [Chú giải của người soạn.]
Trích dẫn SÁCH TRỜI của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, sấm ký cũng ghi rõ tất cả trước sau có 3 lần Thượng Đế xuất Đế Đạo (Đạo của Thượng Đế):
"HUYỀN KHÔNG ÁNG ĐỊNH PHẨM TÒA CHƯƠNG [văn bản Huyền Không: Tòa Chương định]
VI DIỆU ĐẠO THIÊN HÉ LỘ ĐƯỜNG [vi diệu Thiên Đạo khải lộ đường hướng]
KỲ ĐỊNH NĂM NÀY TA PHỔ HÓA [thời kỳ đã định sẵn năm nay 2017 Ta bắt đầu phổ hóa]
BA LẦN XUẤT ĐẾ ĐẠO MUÔN PHƯƠNG. [lần ba xuất Đế Đạo muôn phương]
[Khoán: Huyền Không Đạo Thiên Ta Phổ Hóa, Ba Lần Xuất Đế Đạo Muôn Phương.]
MUÔN PHƯƠNG THẾ GIỚI ĐẠO ĐỒNG CHUNG [muôn phương thế giới chung Cội Đạo]
VẠN KIẾP CÀN KHÔN ĐẾN CỬU TRÙNG [vạn kiếp cùng đất trời, xuất từ CửuTrùng]
LINH ỨNG CƠ MẦU NỀN ĐẠO CẢ [cơ mầu linh ứng nay nền Đạo Lớn giáng thế, do căn lành]
CĂN LÀNH ĐƯA CHUYỂN ĐẠO HUYỀN KHUNG." [đưa chuyển Đại Đạo Huyền Khung]
[Khoán: Muôn Phương Thế Giới Đạo Đồng Chung, Cửu Trùng Đạo Cả Đạo Huyền Khung.]
(Trích dẫn GIẢI ĐÁP HUYỀN CƠ, đàn ngày 17 tháng 6 năm Đinh Dậu 2017, Thánh Đàn Long Ẩn tại Saint Louis, MO, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên.)
HUYỀN KHÔNG ÁNG PHẨM hay VĂN BẢN HUYỀN KHÔNG là nói văn bản của Huyền Không Chí Thượng trên Đài Cao Linh Tiêu giáng xuống thế gian thông qua các vị huyền nam hay huyền nữ tiếp điển chuyển giao đến Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên chứ không phải nói văn bản thế gian. [Chú giải của người soạn.]
Từ huyền khải "xuất Đế Đạo Nam Phương" chỉ để phổ độ chúng dân Nam Việt của thời kỳ trước đây thì nay, nay đến đầu Thượng Ngươn đã chuyển qua thời kỳ "xuất Đế Đạo muôn phương" và "muôn phương thế giới Đạo đồng chung" trong lần ba. Điều này có nghĩa là, thêm một lần nữa xác nhận, sứ mạng của CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ - THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA là mang nền Đại Đạo của Nam Bang ra hải ngoại KHAI CƠ, LẬP GIÁO để hoằng hóa khắp hoàn cầu. [Chú giải của người soạn.]
Sấm ký ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi 2019 của Hội Thánh Giáo Giáo Hội Trường Thiên đã ghi:
"ĐIỂN QUANG THÔNG QUÁN LỜI THẦY KÝ [điển quang lời Thầy ấn ký, phải quán triệt]
KHAI GIÁO KHAI CƠ MUÔN THẾ KỶ [khai cơ khai giáo hoằng truyền muôn thế kỷ]
HUYỀN KHÔNG THƯỢNG ĐẾ THIÊN LAI GIẢ [Ta Thiên Giả Huyền Không Thượng Đế đến]
ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG THIẾT LẬP KỲ." [để thiết lập thời kỳ Đại Đạo Huyền Không]
[Khoán: Lời Thầy Ký: Khai Giáo Khai Cơ Muôn Thế Kỷ. Huyền Không Thượng Đế, Thiên Lai Giả, Đại Đạo Huyền Không Thiết Lập Kỳ. {Nghĩa: Lời Thầy huyền ký: Huyền Khung Thượng Đế Thiên đến thế gian để khai giáo, khai cơ dài tới muôn thế kỷ sau, là thời kỳ thiết lập Huyền Không Đại Đạo.}]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Như vậy, Đức Chí Tôn Huyền Không Thượng Đế đã hóa thân xuống thế gian (Thiên lai giả) để KHAI CƠ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO, LẬP GIÁO THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI, thiết lập KỲ BA của ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG. Lời Thầy huyền ký để lại cho muôn thế kỷ sau hiểu rõ thời kỳ CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ. [Chú giải của người soạn.]
"QUA BAO GIAI ĐOẠN KHÔNG HOÀI THỂ [trải qua bao giai đọan không màn thân xác]
PHỔ ĐỘ NHƠN SANH GIÁO ĐẠO BỀ [chỉ lo bề giáo đạo phổ độ nhơn sanh]
THẦN TIÊN THÁNH PHẬT HÀNH CHUYỂN DỊCH [Thần Phật đều tuân theo Máy Cơ Thiên]
HIỆN LỊNH CƠ KỲ KHÔI TRẦN MÊ [lịnh hiện nay là kỳ khôi phục trần mê]
NHƠN SANH GIỚI CHÚNG NGÀY HỖN LOẠN [nhơn giới chúng sanh ngày nay đầy hỗn loạn]
THƯỢNG ĐẾ THẦY KHAI MẬT TRUYỀN BAN [Thượng Đế ban mật truyền Thầy khai mở đạo]
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO RA ĐÒ THẾ [lập giáo Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi]
TAM KỲ PHỔ ĐỘ CHÁNH PHÁP THUẦN." [hoằng thuần chánh pháp phổ độ Kỳ Ba]
[Khoán: Thượng Đế Thầy Khai Mật Truyền Ban Thiên Khai Huỳnh Đạo Ra Đò Thế.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO trong sấm ký trên là nói THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA, là con đò do chính THƯỢNG ĐẾ XUỐNG THẾ LÈO LÁI trong KỲ BA này, là "màn ba" của Đế Bạch Ngọc Cung, không phải Thiên Khai Huỳnh Đạo do Đức Phật Thầy Tây An tạm thời hoằng khai năm 1962 trong giai đoạn chờ đợi. Tuy sứ mạng THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA là con đò triển khai TÂN LUẬT và TÂN PHÁP của Thiên Phật tức Di Lạc Phật Vương để chuyển hóa thế gian hướng tới tương lai đại đồng bước vào thời kỳ Thánh Đức Tân Dân và trách nhiệm của Đức Ngài kéo dài tới 700 ngàn năm sau, nhưng Thượng Đế vì thương xót chúng nhơn sanh hiện tại trong giờ cuối không nở "hủy diệt tất cả" nên "ban truyền mật chiếu" và "ban truyền mật pháp" căn dặn Thầy Ngôi Hai Trào Tam hoằng THUẦN CHÁNH PHÁP PHỔ ĐỘ KỲ BA để cứu vớt "nguyên căn" trong cơ tận diệt; Là PHỔ ĐỘ KỲ TAM không phải TAM KỲ PHỔ ĐỘ của thời mới khai đạo Cao Đài. [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC BẠCH XUẤT KỲ NGUYÊN VŨ THÀNH [Bạch Ngọc Đế thành xuất từ khi vũ trụ mới mở]
HOÀNG THỌ TÁI HẠ KỲ VẠN LÀNH [Hoàng Thiên xuống thế lần ba là thời vạn lành]
THƯỢNG THIÊN KHỞI MẠCH HỮU BIẾN KHỞI [mạch thượng thiên lúc đầu khởi biến]
ĐẾ THƯỢNG TRUYỀN TRỤ TÚC CHIÊU THANH [Minh Chiêu đã trụ thế thời qua truyền lời ]
KHAI MINH PHÂN GIẢNG CƠ TỚI ĐÂY [để phân giảng làm sáng tỏ: Cơ Thiên tới đây là]
KỲ CUỘC ĐẠO HÓA CAO ĐỨC THÁNH [cuộc kỳ hóa đạo của Đức Thánh Ngôi Hai Trào Tam]
CƠ TUYỂN CHỌN THỂ HIỆN BẢN NGƠI [là cơ tuyển chọn thể hiện bản ngơi của]
ĐẠO ĐẠI KỶ NGUYÊN GIÁO HÓA HÀNH." [Đại Đạo Huyền Không kỷ nguyên giáo hóa hành.]
[Khoán thủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế Khai Kỳ Cơ Đạo. Khoán ẩn: Ngọc Bạch Tái Hạ Kỳ, Thiên Thượng Truyền Thanh [Ngô] Minh Chiêu Phân Giảng, Cơ Tới Đây Cao Đức Thánh Tuyển Chọn, Thể Hiện Đại Đạo Kỷ Nguyên Giáo Hóa Hành.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN THƯỢNG TRUYỀN THANH MINH CHIÊU PHÂN GIẢNG là nói Thiên Thượng truyền thanh âm (lời truyền được ghi lại thành văn bản) và Đức Ngô Minh Chiêu (Đức Ngài Ngôi Hai Trào Một) phân giảng lời của Thiên Thượng truyền xuống. CƠ TỚI ĐÂY CAO ĐỨC THÁNH TUYỂN CHỌN là nói rằng cơ cuộc sắp tới đây Ngôi Hai Trào Tam (Cao Đức Thánh) được trao quyền tuyển chọn. THỂ HIỆN ĐẠI ĐẠO KỶ NGUYÊN GIÁO HÓA HÀNH là nói để chứng thực thời kỳ Huyền Không Đại Đạo là thời kỳ của Kỷ Nguyên Giáo Hóa Hành. [Chú giải của người soạn.]
"CUỘC TẨY TRẦN CHÓT BUỔI HẠ NGƯƠN [cuộc sàng lọc cuối hạ ngươn buổi chót]
NƯƠNG TÁ DỰNG GIÁ NGƯƠN NHÂN THẾ [giá lâm trần nương tá xác dựng lại thế nhân]
NHỊ HOÀNG THIÊN THẾ CUỘC HẠ THỀ [Hoàng Nhị Thiên hạ trần tuyên thệ rằng]
QUY NHỨT THỐNG BƯỚC VỀ ĐẠI CUỘC [sẽ quy nhứt thống bước về đại cuộc]
ĐỨC NGÔI CAO LÂM TRẦN THAO LƯỢC." [Đức Ngôi Hai lâm trần gian nan thực hiện]
[Khoán: Hoàng Nhị Thiên, Đức Ngôi Cao Lâm Trần Thao Lược.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HOÀNG NHỊ THIÊN hay HOÀNG DI THIÊN là ngôi vị vô vi của Ngôi Hai Trào Tam. DI có nghĩa là "đi" đồng thời "lớn mà không thấy được gọi là DI, nhỏ mà không nắm được gọi là VI." Chữ DI trong phong vị HOÀNG DI THIÊN có nghĩa là "Hoàng Thiên xuống thế nhân gian không thấy được". Còn Ngôi Hai là của con đạo tôn xưng hóa thân của Thượng Đế dưới thế. Thánh Chúa Jesus Giáo Chủ Ki Tô là Ngôi Hai của Phương Tây hai ngàn năm trước hoặc Đức Ngài Ngô Minh Chiêu Giáo Chủ Cao Đài là Ngôi Hai Trào Một của phương Đông đầu thế kỷ 20 và Đức Ngài Nhị Thiên Võ Văn Phẩm Cao Đài Giáo Chủ là Ngôi Hai Trào Hai của phương Đông đầu thế kỷ 20. Đức Ngài Hoàng Nhị Thiên Ngôi Hai Trào Tam xuất lộ vào buổi chót Hạ Ngươn Phán Xét với lời minh thệ "lâm trần thao lược" để "quy nhứt thống bước về đại cuộc". [Chú giải của người soạn.]
"VÂNG THỦ TRUNG SAU TRƯỚC MỘC HUYỀN [Nhân Thập Huyền Thiên thủ trung sau trước]
HAI NGÔI MỘT VAI TRÒN, XUẤT HIỆN [xuất hiện hai ngôi trong một vai Ngôi Hai]
TAM NHỊ THIÊN TIẾP CHUYỂN CƠ MẦU [Hoàng Nhị Thiên Trào Tam tiếp chuyển cơ mầu]
TÂN MINH CHIẾU KỲ TAM CƠ CẤU [là Minh Chiếu mới trong Kỳ Tam cơ cấu]
DANH LÀ THẦY MINH HẬU THƯỢNG TRỜI [danh là Minh Thiên Thầy Trời]
BẠCH NGỌC CUNG THƯỢNG ĐẾ KỶ NGÔI." [Bạch Ngọc Cung Thượng Đế vị ngôi]
[Khoán: Mộc Huyền Hai Ngôi Một Vai Tròn. Tam Nhị Thiên Tiếp Chuyển Cơ Mầu, Tân Minh Chiếu Kỳ Tam Cơ Cấu. Danh Là Thầy Trời Bạch Ngọc Cung Thượng Đế Ngôi Ta.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chiết tự của chữ MỘC là chữ Thập và chữ Nhơn, mượn chữ Bát nói chữ Nhơn vì hai chữ này đồng dạng. Do đó chữ Mộc là nói THẬP NHƠN tức có ý nói Thầy Nhơn Thập. Sấm Trạng Trình đã huyền khải từ lâu với hai câu: "Có Thầy Nhân Thập đi về, tả hữu phù trì cây cỏ thành binh". HUYỀN là nói Huyền Thiên Thượng Đế. HAI NGÔI là nói NGÔI CHA Huyền Thiên Thượng Đế và NGÔI CON Hoàng Nhị Thiên Ngôi Hai Trào Tam. MỘC HUYỀN HAI NGÔI MỘT VAI TRÒN là nói ngoài một "hóa thân" là Thầy Nhân Thập Ngôi Hai Trào Tam còn có thêm một Huyền Thiên Thượng Đế "tá xác" ẩn bóng trong hình. XUẤT HIỆN TAM NHỊ THIÊN TIẾP CHUYỂN CƠ MẦU là nói Nhị Thiên Trào Tam hay Ngôi Hai Trào Tam xuất hiện để tiếp nối cơ mầu ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG và chuyển cho TRÀO TAM XUẤT THẾ trong KỲ BA này, tức là họa bóng cho nên hình đúng với lập trình, là thời TÂN MINH CHIẾU KỲ TAM CƠ CẤU. [Chú giải của người soạn.]
Vô Thượng Hư Không Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn cũng đã khải lộ từ năm 1967 về sự hiện diện của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế cũng như sứ mạng của Đức Ngài trong lần thứ ba trở lại:
“DIÊU Ý THIÊN CƠ NGỌC GIÁNG SANH
TRÌ TÂM ĐẠO PHÁP KINH LAI THÀNH
KIM HỒI VÔ NIỆM QUYỂN TRÒN NGHĨA
MẪU ĐÁO VI TRUYỀN BA VẸN DANH
VÔ THỦY MINH MINH THIÊN GIÁNG ĐỂ
CỰC SƠN THIÊN ĐỊNH KHAI CÒN DÀNH
TỪ HÒA ĐẠI THỂ ĐẠI ĐỒNG CHIẾU
TÔN HIỆP NGHĨA CHUNG ĐẠO BẠCH THANH."
[Khoán: Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn. Thiên Đạo Vô Vi Minh Thiên Đại Nghĩa. Ngọc Kinh Quyển Ba (Màn Ba) Thiên Khai Đại Đạo. {Nghĩa: Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn khải lộ rằng Thiên Đạo Vô Vi là đại nghĩa của ngài Minh Thiên (tức Huyền Thiên Thượng Đế) và Thiên Khai Đại Đạo (tức Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi) là màn ba của Bạch Ngọc Kinh.}]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Kim Mẫu Diêu Trì đã nói rõ THIÊN KHAI ĐẠI ĐẠO, THIÊN ĐẠO VÔ VI là ĐẠI NGHĨA của MINH THIÊN, là "màn ba" của Bạch Ngọc Kinh (Ngọc Kinh Quyển Ba). Động từ QUYỂN 捲 Hán Việt còn có nghĩa là "cuốn rèm" tức "kéo màn", màn diễn kỳ ba. Huyền nghĩa của lời sấm ký NGỌC KINH QUYỂN BA THIÊN KHAI ĐẠI ĐẠO khải lộ rằng THIÊN KHAI ĐẠI ĐẠO là màn ba của Bạch Ngọc Kinh. MINH THIÊN là tôn danh của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế. [Chú giải của người soạn.]
Trong bài sấm ký trên còn ẩn hai bài sấm ký khác với ý nghĩa rõ ràng hơn:
"DIÊU Ý [ẨN] THIÊN CƠ [ý trong lời Mẹ Diêu Trì có ẩn giấu Thiên Cơ]
TRÌ TÂM [HÀNH] ĐẠO PHÁP [ráng trì tâm tìm hiểu và hành theo đạo pháp]
KIM [NGÔN] HỒI VÔ NIỆM [kim ngôn của Mẹ là trở về với Vô Niệm]
MẪU [LAI] ĐÁO VI TRUYỀN [Mẹ lai đáo để ẩn mật báo tin rằng]
VÔ THỦY [CHUNG] MINH MINH [có một vòng tròn ánh sáng vô cực]
CỰC SƠN [ĐỊA] THIÊN ĐỊNH [Trời định Ngài hạ trần nơi sơn địa cực nam của đất nước]
TỪ HÒA [NÊN] ĐẠI THỂ [một đấng từ hòa làm nên đại thể]
TÔN [GIÁO] HIỆP NGHĨA CHUNG." [một vị giáo tôn hiệp đại nghĩa chung]
[Khoán: Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn. Thiên Cơ Đạo Pháp Vô Niệm Vi Truyền, Minh Thiên Định Đại Thể Hiệp Nghĩa Chung. {Nghĩa: Diêu Trì Kim Mẫu khải lộ rằng: với cơ Thiên Đạo Vô Vi ngài Minh Thiên sẽ định nghĩa chung hiệp đại thể.}]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Những chữ nằm trong ngoặc vuông [ ] là được chèn thêm vào để làm sáng nghĩa. ĐỊA CỰC SƠN THIÊN ĐỊNH là nói vùng núi non tận địa cực miền Nam nơi Trời đã định. TỪ HÒA NÊN ĐẠI THỂ, GIÁO TÔN HIỆP NGHĨA CHUNG là nói có vị Giáo Tôn từ hòa làm nên đại thể, hiệp được đại nghĩa chung. [Chú giải của người soạn.]
"CƠ NGỌC [ĐẾ] GIÁNG SINH [cơ Ngọc Đế giáng sanh trên đất Việt]
PHÁP KINH [KỲ] LAI THÀNH [ban Mật Pháp Kinh Kỳ lần nữa để tu cho thành]
NIỆM QUYỂN [CHO] TRÒN NGHĨA [nghĩa là phải chuyển pháp luân cho trọn vẹn]
TRUYỀN BA [LẦN] VẸN DANH [truyền mật pháp đúng 3 lần tròn lời hứa]
MINH THIÊN GIÁNG [THẾ] ĐỂ [Đức Ngài Minh Thiên giáng thế là để]
ĐỊNH KHAI [GIÁO] CÒN DÀNH [khai giáo đã được định trước còn đợi đó]
THỂ ĐẠI ĐỒNG CHIẾU [VIẾT] [nhằm xây dựng một thể đại đồng, sắc chiếu viết:]
CHUNG ĐẠO BẠCH [CHƠN] THANH." [hiệp chung một mối Đạo Bạch Chơn Thanh]
[Khoán yêu: Ngọc Kinh Quyển Ba Thiên Khai Đại Đạo. {Nghĩa: Màn Ba của Bạch Ngọc Kinh là Thiên Khai Đại Đạo (tức mở Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba.}]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Bốn câu đầu của sấm ký nói rằng cơ Ngọc Đế giáng sinh lần ba là Đức Ngài sắp đến để truyền bí pháp luyện đạo (pháp kinh kỳ lai thành), niệm niệm chuyển pháp luân cho tròn nghĩa (niệm quyển cho tròn nghĩa), truyền bí pháp trọn ba lần như lời Thượng Đế đã hứa (tròn ba lần vẹn danh). Bốn câu kế nói rằng việc "khai giáo" đã định còn chờ Minh Thiên thực hiện. Huyền Không Thiên Thượng ban sắc chiếu, viết rằng phải lập "thể Đại Đồng" hiệp chung một mối đạo Bạch Chơn Thanh. [Chú giải của người soạn.]
PHÁP KINH KỲ là pháp đạo luyện mạng dùng thần dẫn khí (điển, năng lượng) đi vòng Nhâm Đốc là 2 mạch thuộc "kỳ kinh bát mạch". TRUYỀN BA LẦN VẸN DANH là vẹn danh Cao Đài xuống thế ba lần trên đất nước Việt Nam ba lần truyền trao bí pháp độ thế. Lần thứ nhất là Giáo Chủ Cao Đài Ngôi Hai Trào Một Ngô Văn Chiêu truyền trao cựu pháp Cao Đài. Lần thứ hai là Giáo Chủ Nhị Thiên Võ Văn Phẩm truyền trao tân pháp Cao Đài. Lần thứ ba là là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam "khai Giáo" THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA và truyền PHÁP KINH KỲ cứu vớt "đại linh căn" lập đời Thánh Đức Tân Dân. MINH THIÊN GIÁNG THẾ là nói Huyền Thiên Thượng Đế hóa thân xuống thế, là vị Sư Ông Cao Đại Nhất dưới trần. ĐỂ ĐỊNH KHAI GIÁO CÒN DÀNH là còn dành chờ Sư Ông Cao Đại Nhất đặt định việc khai giáo. Sứ mạng khai giáo của Sư Ông Cao Đại Nhất được THỂ ĐẠI ĐỒNG (Tam Giáo Tòa, Bạch Ngọc Cung, Kim Loan Điện) ấn chứng, tức là có đủ Tam Ấn của Đài Cao Huyền Không Chí Thượng phê chuẩn. Và GIÁO đó là "Bạch Chơn Thanh Giáo" tức "Chơn Thanh Giáo của Bạch Ngọc Cung", là một "giáo thể đại đồng". [Chú giải của người soạn.]
Nội dung đoạn sấm ký cũng là lời Thiên Mẫu Diêu Trì nhắn gởi riêng tới vị "Sư Ông Cao Đại Nhất" hiện đang có mặt dưới thế gian trong xác phàm, tức là nhắn gởi tới vị "Giáo Tôn" lãnh sứ mạng "hiệp nghĩa chung". Đồng thời cũng là những lời mà Thiên Mẫu Diêu Trì muốn nhắn gởi tới tất cả CÁC SƯ ÔNG VÀ CÁC MINH SƯ thừa hành PHẬN SỰ KỲ BA để các ngài hiểu rõ về trọng trách của chính mình và của Sư Ông Cao Đại Nhất, các ngài đã "thệ ước" trước khi xuống thế. Đồng thời Mẹ Diêu Trì cũng muốn BỐ CÁO CHO TẤT CẢ CÁC ĐẠI LINH CĂN ĐANG CHỜ ĐỢI BIẾT RẰNG ÔNG LÁI ĐÒ KỲ BA CHUYẾN CHÓT ĐANG CÓ MẶT GIỮA CHỐN TRẦN AI. [Chú giải của người soạn.]
Tóm lại là kỳ ba màn chót của Bạch Ngọc Kinh chúng dân sẽ chứng kiến cảnh tượng:
"TIÊN ÔNG TRIỀU LUẬN HỘI CHÚNG SANH [Tiên Ông hội triều luận đạo độ chúng sanh]
GIAN THẾ KHAI TAM CHUYỂN THỂ HÀNH [chuyển thể khai mở Trào Tam để thế gian hành]
ÁNH VÀNG ĐẠO THẾ DANH MINH ĐẾ [thế danh Minh Đế Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ 3]
THỐNG NHỨT TỤ TỀ HIỂU RÕ VỀ.” [đã hiểu rõ thì quy về tụ tề thống nhứt nhanh]
[Khoán: Tiên Ông Khai Tam Chuyển Thể Thế Danh Minh Đế. Hiểu Rõ Về Thống Nhứt Tụ Tề. {Nghĩa: Tiên Ông chuyển thể (xuống thế) khai Trào Tam, thế danh là Minh Đế. Hiểu rõ thì quy về thống nhứt tụ tề.}]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn cơ giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên.)
ÁNH ĐẠO VÀNG là nói THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. TAM KHAI CHUYỂN THỂ THẾ DANH MINH ĐẾ là nói HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ hóa thân xuống thế lần ba, là nói TRÀO TAM XUẤT THẾ, là nói NGÔI HAI TRÀO TAM. Đã biết rõ rồi thì hãy quy về, tụ tề quy nhứt thống phổ hóa Đại Đạo cứu chúng sanh. [Chú giải của người soạn.]
6. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, THÁNH CHÚA TÁI LÂM
6.1
"TAM GIÁO TÒA ĐỒNG THANH TIẾN CỬ [Thầy được Tam Giáo Tòa đồng thanh tiến cử]
PHẬT NHƯ LAI DANH DỰ TRỢ NGƯƠN [lại được Chư Phật Như Lai trợ giúp ngươn này]
THÁNH TIÊN TOÀN HẢI KHẮP SƠN [và tất cả Thánh Tiên trong toàn Tam Giới]
RẮP NHAU ĐỀ BẠT LINH CHƠN CỦA THẦY [cùng đề bạt Thầy. Chơn linh của Thầy]
TRƯỚC HAI NGÀN HIỆP VẦY ĐẠI HỘI [hiệp vầy với các vị trước đầu kỷ nguyên 2000]
NƠI LINH TIÊU THÚC VỘI HẠ SANH [nơi Linh Tiêu Điện. Các vị thúc Thầy nhanh hạ sanh]
BIẾT RẰNG QUỶ QUÁI CẠNH TRANH [dầu biết rằng quỷ quái sẽ cạnh tranh với Thầy]
ĐI THÌ BAO NỠ Ở ĐÀNH HAY SAO? [Thầy phân vân vì đi thì không nỡ ở cũng không đành]
CÁC TINH QUÂN XEN VÀO THÚC HỐI [các vị Tinh Quân thúc hối Thầy mau giáng sanh]
CÙNG VỚI THẦY LO HỘI LONG HOA [họ hứa sẽ cùng với Thầy lo Hội Long Hoa]
TRÊN THÌ SẴN BỐ THIÊN LA [trên trời họ bủa lưới Thiên La, dưới đất giăng lưới Địa Võng]
DƯỚI GIĂNG ĐỊA VÕNG TINH TÀ PHẢI KIÊNG [để tinh tà không hại phàm thân của Thầy]
THẦY LÃNH LỊNH XUỐNG MIỀN DƯƠNG THẾ [Thầy lãnh lịnh đầu thai xuống dương thế]
CHỜ ĐẾN NGÀY KHÁNH TỂ TRIỀU BAN." [ẩn hình lặng lẽ chờ đến ngày triều ban khánh tể]
(Trích dẫn DI LẠC CHỦ NGƯƠN, Ngọc Kinh 3, trang 34, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Sấm ký trên là cảnh tượng "hội nghị" tại Linh Tiêu Điện trên cõi Huyền Không Chí Thượng vào thời điểm trước năm 2000 tại thế. Tất cả chư Thần Phật trong Đại La Thiên sum vầy để tiến cử và thôi thúc "chơn linh của Thầy" (tức chiết thân của Thượng Đế) hạ phàm chuyển sanh. Tất cả chư Phật, Như Lai hứa sẽ phò trợ Đức Ngài trong Ngươn Tái Tạo này. Tất cả Tinh Quân hứa sẽ bày Thiên La Địa Võng để bảo vệ Đức Ngài. Tất cả Phật Thánh Tiên hứa sẽ xuống thế cùng Đức Ngài lập hội Long Hoa. Thật là một cảnh tượng "náo nhiệt" chưa từng có. [Chú giải của người soạn.]
6.2
NAY CHUYỂN THẾ ĐẠO TRÀNG KHAI HOÁT [Nay đã chuyển thế mở rộng đạo tràng]
CHO CON TA HỶ LẠC THỪA HÀNH [cho con ta DI LẠC thừa hành]
TÙY THEO PHONG HÓA LẬP THÀNH [tùy vào phong hóa từng nơi mà lập thành]
CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO CHÁNH DANH NGỌC HOÀNG [Cao Đài Đại Đạo chánh danh Ngọc Hoàng]
TRUYỀN THẾ GIỚI KHAI TRÀNG HUẤN GIÁO [mở Trường Giáo Đạo truyền ra thế giới]
CHO CON TRẦN CẢI TẠO TÂM TƯ [để cải tạo tâm thức nhân loài]
KỲ BA ĐẠO MỞ BẤY CHỪ [Thiên thư đã ghi rõ là: Ngọc Hoàng xuống thế]
NGỌC HOÀNG TÁ THẾ THIÊN THƯ ĐỀ RÀNH [thì lúc bấy giờ Đạo Mở Kỳ Ba]
CHUYỂN ĐẠI ĐẠO LẬP THÀNH NAM VIỆT [chuyển nền Đại Đạo đã lập thành tại Nam Việt]
DỤNG HUYỀN LINH GIÁO THUYẾT CON TRẦN [dụng huyền linh vi diệu thuyết giáo]
LẬP ĐỜI MINH ĐỨC TÂN DÂN [cho con trần nghe để lập đời Thánh Đức Tân Dân, chuyển]
CHUYỂN NGƯƠN TÁI TẠO NƠI TRẦN PHỤC NGUYÊN [Ngươn Tái Tạo phục nguyên cõi thế]
KHAI KỲ HẠ TRẦN MIỀN THẤT ỨC [hạ trần để khai mở thời kỳ 7 ức niên nơi trần miền]
DỰNG ĐỜI TÂN TRI THỨC LO TOAN [dựng đời với tri thức mới lo toan việc]
NIẾT BÀN LẬP TẠI TRẦN GIAN [thiết lập Niết Bàn tại thế gian, đâu như trước đã nghĩ là]
ĐÂU CÒN NHƯ TRƯỚC NIẾT BÀN CÕI KHÔNG." [Niết Bàn chỉ hiện hữu cõi hư không]
[Khoán: Kỳ Ba Đạo Mở, Ngọc Hoàng Tá Thế Thiên Thư Đề Rành: Chuyển Đại Đạo Nam Việt, Dụng Huyền Linh Giáo Thuyết, Lập Đời Chuyển Ngươn Tái Tạo, Thất Ức [Niên] Dựng Đời Tân Tri Thức, Lo Toan Niết Bàn Lập Tại Trần Gian. {Nghĩa: Thiên Thơ ghi rành: Ngọc Hoàng tá thế mở đạo kỳ ba, dụng huyền linh thuyết giáo chuyển Đại Đạo Nam Việt, chuyển lập đời ngươn tái tạo, bảy trăm ngàn năm dựng đời với tri thức mới, lo toan lập Niết Bàn tại trần gian.}]
(Trích dẫn BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), Văn Phòng Đại Đạo, pháp đàn Bạch Liên Bạch, đồng tử Huỳnh Hoa. Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn.)
Đoạn sấm ký trên huyền khải rõ ràng Ngọc Hoàng Thượng Đế hạ sanh thế gian lần ba này không phải để thiết lập một giáo thuyết mới nhằm dẫn dắt thế nhân hướng về một thiên đàng hay niết bàn trừu tượng trong cõi hư không như các Giáo Tôn trong quá khứ đã làm mà là để thiết lập một nền tảng đạo đức cho nhân loại trường tồn và hướng tới công cuộc xây dựng một niết bàn tại thế nhờ vào những tri thức mới sẽ được chuyển giao trong tương lai, với thời gian ước tính là bảy trăm ngàn năm tới, một thời kỳ vô vi hóa duy vật, một thời kỳ khoa học sẽ song hành với tôn giáo hiện đại. Đây là một điều vô cùng tân kỳ. Khái niệm này hoàn toàn không giống với các tôn giáo trước. Thần Phật và E.T. bổng dưng gần gũi nhau lạ. Một huyền khải rất "sốc" và mở ra cánh cửa đầy hy vọng và niềm tin vào tương lai cho nhân loại: Bảy trăm ngàn năm sau nhân loại trên trái đất sẽ trở thành một thành viên của cộng đồng thiên hà với nền khoa học vượt trội đến mức không thể nghĩ bàn, bằng vào tri thức hôm nay chỉ có thể dùng cụm chữ "niết bàn tại thế" để miêu tả. [Chú giải của người soạn.]
"HỠI NÀY TRẺ HỘI ĐỒNG GÓT THÁNH [hỡi trẻ hãy cùng chung bước với Chúa Thánh]
ĐẶNG HƯỞNG NHỜ TRONG CẢNH THƯỢNG ĐỜI [để hưởng ân phúc thời ngươn thượng]
TẠI TRẦN NÀY HỠI CON ƠI! [ngay tại cõi trần này hỡi các con của Ta ơi, các bậc hiền nhân]
HIỀN NHÂN THÁNH TRIẾT CHỈNH ĐỜI THUẦN PHONG [thánh triết sẽ chỉnh lại phong hóa]
NẠN TIÊU DIỆT TRÀN ĐỒNG LÀ THẾ [tiêu diệt vô số kẻ tà ác là để chỉnh nhơn phong]
ĐỂ LỌC LỪA HẬU KẾ GIÁO DÂN [để lọc lừa chọn lựa giáo dân kế thừa mai sau]
THAY THƯỢNG ĐẾ BẬC THÁNH THẦN [các bậc Thánh Thần thay mặt Thượng Đế]
CHUYỂN XÂY THẾ HỆ VĨ NHÂN TRỊ ĐỜI [xuống thế trị đời là các vĩ nhân chuyển xây thế hệ]
VÌ LUẬT ĐỊNH TRONG THỜI KHAI HỘI [luật định trong thời khai Hội Long Hoa]
CHUYỂN BÌNH MINH TIẾP NỐI ĐỆ TAM [chuyển Minh Thiên đến thế gian tiếp nối Kỳ Ba]
PHÁI CHI ỨNG DỤNG TRUYỀN BAN [truyền ban các chi các phái rõ rành để ứng và dụng]
TRONG NỀN ĐẠI ĐẠO NGỌC HOÀNG CHUYỂN RA. [trong nhứt mạch Thiên Khai Đại Đạo]
[Khoán ẩn: Bậc Thánh Thần Chuyển Xây Thế Hệ Vĩ Nhân Trị Đời. Trong Thời Khai Hội Chuyển Bình Minh Tiếp Nối Đệ Tam. Phái Chi Ứng Dụng Truyền Ban Trong Nền Đại Đạo Ngọc Hoàng Chuyển Ra. {Nghĩa: Thánh Thần sẽ chuyển xây thế hệ vĩ nhân để trị đời. Trong thời kỳ khai hội, Ngọc Hoàng sẽ chuyển Minh Thiên ra tiếp nối Kỳ Ba. Các phái các chi trong nền Đại Đạo phải ứng dụng truyền ban thông điệp này.}]
(Trích dẫn BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), Văn Phòng Đại Đạo, pháp đàn Bạch Liên Bạch, đồng tử Huỳnh Hoa. Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn.)
Sấm ký này đã huyền khải Phật Thánh Tiên hóa thân xuống thế sẽ là những vĩ nhân trị đời với đạo đức sáng ngời cùng với tri thức tinh khôi (tri thức mới). Tiến trình sẽ kéo dài bảy trăm ngàn năm (7 ức niên). Xã hội loài người sẽ tiến bộ vượt bực về mặt khoa học thực dụng song hành với tâm linh siêu việt để có thể thiết lập Niết Bàn tại thế. Đó là một tương lai tuyệt vời dành cho nhân loại, dành cho những ai tồn tại sau những sàng sảy kinh hồn (được tuyển lựa là Tân Dân của đời Thánh Đức). Trái đất sẽ đổi mới. Con người sẽ đổi mới. Vạn vật trên trái đất này cũng sẽ đổi mới. Thế giới sẽ phủ trùm Hỷ Lạc của Di Lặc Phật Vương. Tất cả sẽ được thực hiện với năng lực vô hình bất khả tư nghị của Huyền Không Chí Thượng thông qua bàn tay và ý thức của toàn thể nhân loài (thông qua hữu hình). Khả năng tâm linh của nhân loại sẽ được nâng lên và sẽ có khả năng tiến nhập vào thế giới duy độ cao hơn. Khoa học cao cấp sẽ được chuyển giao cho nhân loại thông qua khả năng tâm linh. Năng lực vô hình cũng sẽ được khai mở cho các Minh Sư tại thế, lặng lẽ và ẩn mật phối hợp với Thiên Thượng. Di Lạc Phật Vương đang và sẽ tiếp tục có mặt tại trần gian trong suốt thời gian bảy ức niên tới, trong xác thân những con người bằng xương bằng thịt trong những vai trò khác nhau ở mỗi giai đoạn theo nhu cầu với những lần hóa thân xuống thế trở lại, nhưng hiện thân của Di Lạc sẽ luôn luôn là một ẩn số mà người đời chỉ có thể thấy "loáng thoáng bóng Huỳnh Long". [Chú giải của người soạn.]
Như đã nói qua, chữ BÌNH MINH bạch văn là "trời sáng" còn huyền nghĩa của sấm ký là nói MINH THIÊN (tôn danh của Huyền Thiên dưới thế). BÌNH MINH TIẾP NỐI ĐỆ TAM theo bạch văn chỉ là "kinh Bình Minh cuốn thứ ba tiếp nối" nhưng theo huyền nghĩa của sấm ký thì lại là "Minh Thiên trào tam tiếp nối". Theo bạch văn CHO CON TA HỶ LẠC THỪA HÀNH là cho tất cả con đạo Cao Đài Thống Nhứt nói riêng và con đạo dưới thế nói chung hoan hỷ làm theo hướng dẫn của Mẹ Diêu Trì, nhưng huyền nghĩa của sấm ký thì không đơn giản như thế. Vậy CON TA HỶ LẠC THỪA HÀNH là ám chỉ đấng nào thừa hành? Thưa chính là nói DI LẠC PHẬT VƯƠNG đấng HỶ LẠC, và như sấm ký trong Ngọc Kinh 3 từng huyền khải: "hiện thân Di Lạc trần gian, Phật Vương là hiệu, Minh Hoàng là danh." Như vậy rõ ràng "con Ta Hỷ Lạc" là nói Đức Di Lạc Phật Vương tức Đức Thiên Phật. [Chú giải của người soạn.]
6.3
"DI VÌ THÁNH LỊNH CỦA TRỜI BAN [vì thánh lịnh của Trời ban]
LẠC HỘI CỘNG ĐỒNG TẠI THẾ GIAN [Di Lạc hội cộng đồng tại thế gian]
PHẬT LUẬT Y HÀNH CHO PHẢI PHÉP [Phật luật y hành cho phải phép]
VƯƠNG MINH TRẠCH ĐỨC MỚI PHÂN PHÀM. [vương minh trạch đức phân thánh phàm]
[Khoán: Di Lạc Phật Vương, TRỜI Tại Thế Gian. {Nghĩa: Di Lạc Phật Vương là đấng Trời hiện thân dưới thế gian.}]
CHÚNG ĐỆ TỬ PHẬT NAY NGHE LỊNH [Chúng đệ tử Phật Vương nay hãy nghe lệnh!]
SẮC CHỈ TA PHỤNG LĨNH NGỌC HOÀNG [Ta phụng lĩnh sắc chỉ Ngọc Hoàng]
CẦM CÂN THƯỞNG PHẠT TRẦN GIAN [cầm cân thưởng phạt thế gian]
TRƯỚC LO TRỊ ĐẠO SAU TOAN TRỊ ĐỜI... [trước là trị Đạo sau tới trị Đời]
CHỚ KHOE KHOANG TRỒNG ĐÁ DỜI SÔNG [chớ khoe tài của kẻ vô thần]
TRỜI NAM PHỤNG KIẾN NGÔ ĐỒNG [rồi sẽ được thấy Thánh Nhân Nam Việt]
ĐẤT VÀNG HẠC GÁY, CÁ RỒNG PHI THIÊN... [nơi đất Bảo Châu lập đài Phong Vân]
ĐỜI DANH LỢI UY QUYỀN CHEN CHÚC [Đời vì danh lợi quyền mà tranh giành chen chúc]
ĐẠO KHÔNG NGOÀI LÚC THÚC CHẠY THEO [Đạo không ngoại trừ cũng lúc thúc chạy theo]
BÊN LỀ ĐƯỜNG CÁI THÔNG REO [đứng bên lề đường cái sừng sững dáng thông reo]
BÓNG HUỲNH THẤP THOÁNG NÚI ĐÈO BIỂN SÔNG." [Sơn Liên ẩn hiện Huỳnh Long bóng]
(Trích dẫn CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 8 năm Canh Tý (8/10/1960) tại Ngũ Phụng Kỳ Sơn, Thiên Khai Huỳnh Đạo.)
CHỚ KHOE KHOANG TRỒNG ĐÁ DỜI SÔNG tương đương với câu "vắt đất ra nước thay trời làm mưa" trên cửa miệng của những kẻ vô thần trong một thời, chỉ là nhắc lại cho nhớ. NGÔ ĐỒNG hàm 2 ý: (1) Cây ngô đồng; (2) "đồng" với ông Ngô Minh Chiêu, là Ngôi Hai Trào Một, Giáo Chủ Cao Đài Đại Đạo. TRỜI NAM PHỤNG KIẾN NGÔ ĐỒNG hàm hai ý: (1) Nam Việt sẽ thấy xuất hiện (kiến) một quý ông (phụng) đồng đẳng với ông Ngô Minh Chiêu (Ngô đồng); (2) Ông Ngôi Hai Trào Tam (phụng trời Nam Việt) sẽ đến đảnh lễ (kiến) ông Ngô Minh Chiêu Ngôi Hai Trào Một, để tiếp nhận truyền thừa trong vô hình. ĐẤT VÀNG là Golden State, vùng đất vàng California, vùng đất bảo châu. ĐẤT VÀNG HẠC GÁY là nói có một nền Đạo sẽ khai mở tại vùng Đất Vàng California. HẠC GÁY có nghĩa là Tiên Gia cất tiếng. CÁ RỒNG PHI THIÊN là nói cá hóa thành rồng bay lên trời, ám chỉ công thành danh toại. ĐẤT VÀNG HẠC GÁY CÁ RỒNG PHI THIÊN là nói nơi vùng đất California sẽ có Đạo Trường của Tiên Gia ra đời và đó cũng là Thi Trường Long Vân trong vận kỳ tuyển trạch các Thiên Long và Thiên Hoa đủ đức tài tham dự Long Hoa Đại Hội. [Chú giải của người soạn.]
Tất cả các huyền khải này đã thành sự thật. QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO được khai mở tại Nam California theo lịnh của Huyền Khung Thiên Thượng, Chánh Tòa được đặt tại Westminster từ năm Đinh Dậu 2017, dưới danh xưng HỘI THÁNH GIÁO HỘI TRƯỜNG THIÊN, và sau cùng là chính thức "khai giáo" ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG - CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ - THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA vào ngày 10 tháng 3 âm lịch năm Giáp Thìn 2024. [Chú giải của người soạn.]
Theo Wikipedia, hai câu thơ nổi tiếng tả cây ngô đồng là "Nhất chu thanh ngọc lập, thiên diệp lục vân ủy", biểu đạt được hình thái kỳ vĩ của nó. Từ thời Hán nó trở thành là loại cây không thể thiếu trong hoàng cung ngự uyển. Theo truyền thuyết, cây ngô đồng là nơi trú ẩn ưa thích của loài chim phụng hoàng. Phụng là con chim trống, hoàng là con chim mái. Chim phụng là biểu tượng cho Vua còn cây ngô đồng là biểu tượng chỗ ở của Vua (hoàng cung). Huyền khải "Trời Nam phụng kiến ngô đồng" có nghĩa là Nam Việt sẽ xuất đế vương và với câu liền theo "đất vàng hạc gáy cá rồng phi thiên" thì xác định vị đế vương này là một vị vua đạo (còn Tây Phương gọi là Giáo Hoàng) chứ không phải vua đời. [Chú giải của người soạn.]
THÔNG REO tượng trưng cho tiếng nói của người quân tử hay của bậc thánh hiền, như ông Nguyễn Công Trứ đã từng cảm thán:"Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo". BÊN LỀ ĐƯỜNG CÁI THÔNG REO là nói bậc Thánh Hiền chấp nhận đứng bên lề cuộc đời như cây thông sừng sững không cong vẹo đứng bên lề đường cái. NÚI ĐÈO BIỂN SÔNG là nói chữ NÚI đèo theo (gùi sau lưng) chữ SÔNG tức là nói chữ SƠN HÀ, mà chữ SƠN HÀ cũng là SƠN LIÊN vì chữ 荷 đọc là HÀ hoặc HẠ có nghĩa là SEN hay HOA LIÊN. Sơn Hà và Sơn Liên đều là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. BÓNG HUỲNH THẤP THOÁNG NÚI ĐÈO BIỂN SÔNG là ẩn ý huyền khải "bóng Huỳnh Long thấp thoáng Sơn Liên" tức là nói "Sơn Liên ẩn hiện bóng dáng Huỳnh Long". Chữ HUỲNH LONG không phải nói con rồng họ Huỳnh, cũng không phải nói con rồng Huỳnh Đạo, mà là nói DI LẠC PHẬT VƯƠNG là huỳnh quang nhứt khí hóa sanh. Lão Tử đã từng giảng "nhìn mà không thấy là DI, nghe mà không thấy là HI, nhỏ mà không nắm được là VI." Khổng Tử cũng từng nói về Lão Tử "như thần long thấy đuôi không thể thấy đầu". Cho nên người đời sẽ không thể "thấy" DI LẠC HUỲNH LONG dầu Phật Vương có thực sự đang tại thế gian trong một nhân thân giữa dòng đời xuôi ngược cho nên mới nói "bóng Huỳnh thấp thoáng", dầu là có đến ngày "khánh tể triều ban" đi nữa thì cũng chỉ là thấy "bóng Huỳnh thấp thoáng" mà thôi. [Chú giải của người soạn.]
6.4
"MƯỢN VAI THẾ CHỢ ĐỜI COI THỬ [đóng vai người trần giữa chợ đời để coi thử]
MƯỢN DỤNG HÌNH HAI CHỮ TỪ BI [mượn xác hình để dạy hai chữ Từ Bi]
VÔ HÌNH VÔ TƯỚNG BẤT Y [nói rằng vô hình tướng nên không tin không làm y]
THIÊN HÌNH BÓNG DẠNG THIÊN KỲ GẦN BÊN [nay bóng dạng ÔNG TRỜI đà kề cận]
TRẦN THẾ ĐÂU CHỨNG TÊN TỬ LÃO [nhưng trần thế đâu chứng tên Con của Lão]
KẺ NGANG NGĂN CÔNG NÃO MỌI ĐIỀU [kẻ ngang ngược còn cản ngăn làm khó mọi điều]
KHUYÊN NGƯỜI RĂN ĐỦ SỚM CHIỀU [khuyên dân Ta răn dạy hết sớm tới chiều]
CHIẾU THEO NHÂN QUẢ THIỆN ĐIỀU TỘI CÔNG [chiếu nhân quả công tội không hề sai]
GIÁO PHÁP CƠ BAN CÔNG GIỜ LỘ [giờ thì tới lúc công khai lộ cơ ban giáo pháp]
THÂN XÁC NÀY ẨN BỘ TA ĐÂY [thân xác Ngôi Hai Trào Tam này ẩn bộ Ta đây]
THẤY ĐỜI CÒN CHẲNG BAO NGÀY [thấy đời chẳng còn được bao ngày nữa]
SỔ TRẦN ĐÃ ĐẾN XÁC THÂY NỔI BỒNG [sổ trần đến lúc xét, thấy xác thây trôi nổi]
TA ẨN DẠNG HƯ KHÔNG KHÓ THẤY [từ hư không đến Ta ẩn nơi thân của Con Ta ai thấy]
XUỐNG THẾ TRẦN KHÉP LẠI SỔ TRẦN. [Ta xuống thế trần để tính sổ nhơn sanh]
TIẾC THƯƠNG TA ĐÃ LỘ RỀN [còn tiếc thương nên Ta đã khải lộ cơ thiên rền khắp]
BÂY GIỜ PHẢI HỦY TUỔI TÊN BỤI TRẦN.[vì không nghe nên nay Ta đành phải hủy thôi]
NGÀI ĐÃ LỘ THẾ NÀY TA XỬ [Đức Ngài đã xuất lộ là đến lúc thế trần này Ta xử]
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THẬT LÀ TA [Ngọc Hoàng Thượng Đế chính là TA]
KHẨU XUẤT LỜI NAY TA CHÍNH LÀ. [Lời này là của TA Ngọc Hoàng Thượng Đế]
SƠN TRUYỀN THẬP TỰ HIỆP NHỨT CHI [Thầy Thập Tự hiệp truyền Bửu Sơn,]
ÁN BÌNH CANG TÁ NẢY ĐỊA VI [Án (Ôm), Thiên Bình từ Trời Cao hóa sanh dưới đất,]
HUỲNH QUANG NHỨT KHÍ TỪ ÂN CHÚNG [một khí Huỳnh quang ân từ ban chúng,]
BỔ HÓA DIỆU ÂM TAM CÕI QUY. [diệu âm bổ hóa ba cõi thiên nhân địa quy về.]
HUYỀN ĐỨC THIÊN HẠ TRAO THÁNH ĐẠO [Đức Huyền Thiên hạ thế trao Thánh Đạo]
CÂN SỬA LOÀI NGƯỜI BỔ HÓA VÀO [bổ hóa đạo lành chỉnh sửa nhơn loài]
TAM THÁNH TINH QUÂN TỪ ÂN HÓA [từ ân của Tam Thánh Tinh Quân hoằng hóa]
LỊCH HẠ ĐẠI THIÊN ÂN ĐỨC NÀO. [khắp cả Đại Thiên ân đức nào bằng]
[Khoán: Huyền Đức Thiên Hạ Trao Thánh Đạo Cân Sửa Loài Người. {Nghĩa: Đức Huyền Thiên Thượng Đế hạ phàm trao Thánh Đạo để cân phân tội phước sửa sai chúng nhân.}]
THÁNH TINH QUANG QUỐC QUY THẬP VẠN [tinh quang Quốc Thánh hiệp Phật Chúa]
ĐẠO THƯỢNG THANH THIÊN LUẬT ĐẠO RĂN [Thiên Đạo luật răn lời đạo thượng]
GIÁC MÊ MAU THỨC LỜI CHÁNH GIÁO [lời chánh giáo giác trần mê mau tỉnh thức]
ĐÀI NGŨ LUÂN HÀNH HÌNH TỬ CĂN. [đừng để đài ngũ luân xét tội xử phạt các con]
[Khoán: Thánh Quốc hiệp Phật Chúa. Thiên Luật Răn Giác Mê Mau Thức: Đài Ngũ Luân Hành Hình Tử Căn. {Nghĩa: Thánh Quốc "tay Phật tay Chúa chấp chung" quy bá tánh về một nhà. Lời răn để giác mê: rằng Đài Ngũ Luân sẽ xử tội con trần, nếu không khâm tuân Thiên Luật, hãy mau thức tỉnh!}]
ƠN HOÀNG PHỤ SANH NHI KHAI ĐẠO [Ơn Thiên Hoàng sanh Ngôi Hai khai đạo]
SANH BA NGÔI TAM BỬU CÀN CAO [Càn Cao Thiên sanh Ba Ngôi Trào]
TỪ ẤU NHI HỌC ĐẠO LÃO THÀNH [từ khi còn bé học đạo cho tới già]
KINH DỮ ĐẠO, ĐẠO MẦU SÁNG TẠO. [kinh và đạo, đạo mầu Ngôi Hai sáng, tạo]
[Khoán: Hoàng Phụ Sanh Nhi Khai Đạo, Sanh Ba Ngôi Tam Bửu Càn Cao. {Nghĩa: Cha Ngọc Hoàng sanh con (Ngôi Hai) khai đạo , Thiên Chúa (Càn Cao) sanh ba ngôi trào (tam bửu).}]
MÀN ĐÊM ĐÃ PHỦ, RẠNG SƯƠNG MAI [đêm qua rồi, bình minh tới, Minh Thiên đã tới]
CÕI TRẦN AI NGỦ NGỌC TIẾC THAY [người đời vẫn chưa thức Ngọc Đế tiếc thay]
MUÔN NĂM CÓ MỘT HIỆN LINH ĐIỂN [muôn năm mới có một linh điển hiện thế]
MAU TỈNH! NGÔI XƯA TRỞ LẠI NGAY." [mau tỉnh dậy về lại ngôi xưa các con Ta hỡi!]
[Khoán: Muôn Năm Có Một Hiện Linh Điển. Mau Tỉnh! Ngôi Xưa Trở Lại Ngay. {Nghĩa: Muôn năm mới có một Thánh Chúa hiện thân trong thế gian. Mau tỉnh dậy! Trở về ngôi xưa ngay.}]
(Trích dẫn NGỌC KINH: LONG HOA MỞ HỘI KHAI QUỐC ĐẠO, đàn giờ Ngọ ngày mùng 9 tháng Giêng năm Canh Tý (2/2/2020), Vía Ngọc Hoàng, thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THẬP VẠN là biểu tượng Thập Tự và chữ Vạn, ý nói Chúa và Phật. ƠN HOÀNG PHỤ SANH NHI KHAI ĐẠO, SANH BA NGÔI TAM BỬU CÀN CAO là nói Hoàng Thiên (Càn Cao) sinh ra Ngôi Hai (sinh con khai đạo) và sanh tới ba Ngôi Hai khai đạo ba trào tức là nói Ngôi Hai Trào Một, Ngôi Hai Trào Hai và Ngôi Hai Trào Ba. Tuy nói "ba ngôi con" nhưng thật ra cũng chỉ có một ngôi, chỉ là giáng hạ 3 lần thiết lập ba trào mà thôi, lần chót Kỳ Ba này là giai đoạn khai cơ lập giáo của Ngôi Hai Trào Tam. RẠNG SƯƠNG MAI là nói bình minh tới, ý nói Minh Thiên tới. [Chú giải của người soạn.]
Chiếu theo nội dung sấm ký này thì Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam đã xuất lộ ở Phương Tây và đang thuyết giảng giáo pháp tại vùng "đất vàng hạc gáy cá rồng phi thiên", tức "vùng đất bảo châu" California của Hoa Kỳ. [Chú giải của người soạn.]
6.5
"NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THIÊN QUAN [Ngọc Hoàng Thượng Đế Thiên Quan tới]
CHUYỂN XOAY THẦN SẮC ĐIỂN PHÔ MỘT BẦU [sắc thần chuyển xoay một bầu thế giới]
ĐẾ XUỐNG TẾ ĐỘ GOM THÂU [Thánh Chúa xuống trần tế độ gom thâu]
TAM KỲ CHUNG CHỈ CƠ SÂU DẠY TRUYỀN. [dạy truyền Kỳ Ba chỉ dẫn cho thấy cơ sâu]
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Chuyển Xoay. Đế Xuống Tế Độ Gom Thâu Tam Kỳ. {Nghĩa: Ngọc Hoàng Thượng Đế chuyển xoay cơ cuộc. Thánh Chúa xuống trần kỳ ba để gom thâu.}]
VÔ CỰC KHAI SẮC RÀNH RÀNH [Vô Cực khai sắc ấn rành rành]
XEM KÌA CON TRẺ TU HÀNH CĂN DUYÊN [xem căn cơ con trẻ căn duyên tu hành]
ĐẠO CHƠN THẦY CHUYỂN GIÁO TRUYỀN [Thầy chuyển Chơn Đạo giáo truyền, hiệu]
DIỆU ĐỀ ĐẠO HIỆU MÔN HUYỀN HƯ VÔ. [Vô Thượng Hư Không Huyền Thiên môn đạo]
[Khoán: Vô Cực Khai Sắc Đạo Chơn Thầy Chuyển Giáo Truyền Đạo Hiệu Môn Huyền Hư Vô. {Nghĩa: Vô Cực khai ấn sắc chuyển Chơn Đạo, Thầy giáo truyền môn đạo, hiệu Vô Thượng Hư Không Huyền Thiên Thượng Đế.}]
MỘT GIỜ THIÊN ĐIỂN CHUYỂN XOAY [một giờ thiên điển Trời chuyển xoay, là thiên cơ]
THIÊN CƠ VẠN PHÁP BAN KHAI XUỐNG TRẦN [vạn pháp được ban khai, xuống trần điển tá]
CHỈ ĐƯỜNG ĐIỂN KÝ XÁC THÂN [xác thân chỉ đường cho con trẻ, hãy đón pháp điển lời]
LỜI THIÊN PHÁP ĐIỂN ĐÓN PHÂN ĐẠI ĐỒNG. [Thầy Trời phân giải cho toàn cả đại đồng]
LO TU CHO ĐƯỢC TRẺ ÔI [Thầy khuyên con hãy tu đi trẻ]
CHƠN KINH THIÊN LỊNH SẮP HỒI CỨU NGUY [Chơn Kinh ban cho con là để cứu nguy]
CHA THẦY DẠY ĐẠO CHÓT KỲ [Cha Thầy dạy đạo cho con Kỳ Ba lần chót]
HIỆP THIÊN AI DỰ MAU THÌ ĐẶNG AN [ai mau hiệp với Thượng Thiên thì đặng an]
CHƠN KINH BẢO DƯỢC ỨNG SANG [Chơn Kinh ban xuống là thuốc quý cứu con]
HIỆP CƠ ĐỀU XUỐNG NHÂN GIAN XEM CÙNG…[Cơ Thiên chư vị đều xuống hiệp cùng]
[Khoán: Thiên Lịnh Sắp Cha Thầy Dạy Đạo Chót Kỳ, Hiệp Thiên Ai Dự Mau Thì Đặng An. {Nghĩa: Thiên Linh sắp đặt cho Cha Thầy dạy đạo Kỳ Chót này (Trào Tam), ai mau tham dự trở về với Cha (hiệp thiên) thì đặng bình an.}]
TÂY PHƯƠNG NGỌC GIÁ ĐỊNH BAN [Thầy giá ngự ở Phương Tây là để định ban]
CHUYỂN XOAY TỨ HƯỚNG CỨU NÀN THIỆN LƯƠNG [chuyển xoay 4 hướng cứu nguy nan]
SẮC TRỜI GIÁNG THẾ RÕ TƯỜNG [nếu con đã rõ tường Thầy Trời đã giáng thế]
MAU MAU TỈNH DẬY thoát đường nạn hư. [thì mau mau tỉnh dậy tìm đường thoát nạn về]
[Khoán: Tây Phương Ngọc Giá Chuyển Xoay Tứ Hướng, Sắc Trời Giáng Thế Mau Mau Tỉnh Dậy. {Nghĩa: Ngọc Đế giá lâm Phương Tây chuyển xoay tứ hướng. Đấng Trời giáng xuống thế phàm trong xác thân. Mau mau tỉnh dậy.}]
TRIỂN KHAI LẬP HỘI NĂM CHÂU [Thầy triển khai Đại Đạo lập hội khắp hoàn cầu]
TRẺ MAU THẤU ĐÁO CÙNG NHAU ĐỒNG LÒNG [trẻ hiểu rõ mau hiệp cùng một dạ]
LÊ DÂN SẮP TỚI LONG BONG [sắp tới nhân loài trôi nổi bởi thiên tai nhân họa]
ĐỔI THAY THAY ĐỔI ĐẠO DÒNG CHỊU MANG. [thay thay đổi đổi Đạo Dòng ách mang]
ĐÒ CHUYẾN CHÓT RÁNG LO CÒN SỐNG [Đò Chót của Thầy ra độ, ráng lo tu để còn sống,]
MÀN NÀY PHẢI MÓT BÒN CON ĐẬU [màn này con phải bòn mót cho đậu đức công,]
CỐ MÀ LO KIỂM XÉT GIÚP NHAU [ráng mà lo kiểm tâm xét tánh thiện lòng giúp nhau,]
ĐÒ CHUYẾN CHÓT CỦA BÁU GIỮ VÀO. [chuyến đò chót này có đủ Tam Bảo. Hãy ôm vào!]
[Khoán: Đò Chuyến Chót Ráng Lo Màn Này! Cố Mà Lo, Đò Chuyến Chót Của Báu Giữ Vào. {Nghĩa: Giáo Hội Trường Thiên là con đò chuyến chót. Ráng mà lo màn này! Cố gắng mà lên cho được con đò chuyến chót này, cố gắng giữ chặt của báu (tức giữ chặt Tam Bảo là Ngôi Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con, và Thánh Thần)!}]
BỌC XÁC CHA ĐẶNG PHƯỚC LONG HOA [được Cha phủ điển là có phước Long Hoa vào]
TU PHẢI SỬA LONG HOA ĐẮC ĐẠO. [tu phải ráng sửa để Long Hoa đắc đạo]
TÔN THÁNH ĐẾ MINH VƯƠNG THÂU TÀ [Thầy là Minh Vương Tôn Thánh Đế]
TA GIÁNG THẾ MUÔN NHÀ CẢM ĐỨC [thâu tà Thầy giáng thế muôn nhà cảm đức]
LỜI THƯỢNG ĐẾ GIÁNG PHÂN OAI LỰC [Thượng Đế Cha giáng điển phân lời oai lực]
QUỐC ĐẠO CHÂU NHI ĐỨC LẬP TRÀNG [Đạo Quốc, đứa con châu ngọc của Ta mở Trường]
BAN HUYỀN BÍ TRUYỀN LINH CHA GIÁNG [Cha giáng linh ban truyền huyền bí pháp]
KIM KHAI BẢNG TÂN DÂN THƯỢNG KHÁCH. [và khai kim bảng Tân Dân Thượng Khách]
[Khoán: Tôn Thánh Đế Minh Vương Giáng Thế. Thượng Đế Giáng Phân Quốc Đạo Lập Tràng. Linh Cha Giáng Kim Khai Bảng Tân Dân Thượng Khách. {Nghĩa: Tôn Thánh Đế Minh Vương giáng thế, là Thượng Đế Huyền Thiên phân tánh giáng sanh (giáng phân), Quốc lập đạo trường, thánh linh Cha giáng xuống, khai kim bảng Tân Dân thượng khách.}]
THÁNH LẬP BẢNG ĐẮP ĐÀI CHÚA AN [Thánh Chúa đắp đài an vị lập phong bảng]
CÕI DI LẶC THƯỞNG BAN ĐÀO HỘI [Hội Ngươn Thiên Di Lạc cõi Bàn Đào thưởng ban]
XÉT KHỔ CÔNG ĐẮC QUẢ VỊ NGÔI [xét công khổ nhọc đắc quả được vị ngôi cao]
BẢNG PHONG ĐÀI TRẦN CÕI KIM THÀNH. [tại trần Kim Thành nơi lập đài phong bảng]
[Khoán: Thánh Chúa Di Lạc Xét Quả Vị Ngôi Phong Bảng [ngay tại] Cõi Trần. {Nghĩa: Thánh Chúa Di Lạc xét quả vị ngôi, đài phong bảng tại cõi trần.}]
DẠ BÁC ÁI TỨ ÂN TRUYỀN ĐẠO [vì lòng bác ái nên ban ân truyền đạo]
KHAI TRỤ MỞ BỬU CHÂU TAM GIÁO [mở khai Tam Giáo trụ trên đất bửu châu]
KẾT THÁNH TÒA BỒI ĐẠO LẠC HỒNG. [dựng Thánh Tòa bồi dưỡng Đạo Lạc Hồng]
[Khoán: Tứ Ân Truyền Đạo, Khai Trụ Mở Bửu Châu Tam Giáo Bồi Đạo Lạc Hồng. {Nghĩa: Ngài Di Lạc truyền đạo Tứ Ân khai mở Tam Giáo (Phật Giáo, Thánh Giáo, Tiên Giáo) trên vùng đất "bảo châu" (tại California Hoa Kỳ và tại Nam Bang Phật Quốc, vun bồi Đạo Việt (Đạo Hồng Lạc).}]
KỈNH PHỤNG THỜ VÔ VI CHA DẠY [dạy kỉnh phụng thờ Cha Mẹ Vô Vi]
HIỀN LƯƠNG ĐEM TRỔ LẠI QUÊ NHÀ [đem kẻ hiền lương về trổ sanh trên đất Việt]
THIÊN QUÂN TRỞ LÀNH THAY PHỤ GIÁ [lành thay Thiên Quân Cha đáo thế]
KIẾM TỪ BI TỪ DẠ KHẮP NƠI. [tìm kiếm khắp nơi con trẻ có lòng từ để đem về]
[Khoán: Kỉnh Phụng Thờ Vô Vi Cha. Đem Trổ Lại Quê Nhà, Thiên Quân Kiếm Từ Bi Từ Dạ Khắp Nơi. {Nghĩa: Di Lạc dạy kỉnh phụng thờ Cha Vô Vi, đem Đạo Việt từ Phương Tây trở lại quê nhà Nam Việt, Thiên Tôn ngài kiếm người có dạ từ bi từ khắp nơi trên thế giới.}]
ĐẾN LIÊN TÒA TRẺ ÔI THÂN HÓA [trẻ ôi hóa thân tại thế đến liên tòa]
PHẬT XUẤT THÂN HOÁ ĐỘ DUNG HÒA [Phật ẩn phàm thân độ hóa dung hòa]
MAU BƯỚC VỀ LIÊN HOA CHÁNH ĐẠO." [mau bước về học chánh đạo với Đức Hà]
[Khoán: Đến Liên Tòa Phật Xuất Thân Bước Về Liên Hoa Chánh Đạo. {Nghĩa: Hãy đến liên tòa nơi Phật xuất thân (nơi vùng đất bảo châu) bước về chánh đạo của Đức Liên Hoa (Đức Hà).}]
(Trích dẫn NGỌC KINH: TÂN ĐẾ ẤN VÔ THƯỢNG LẬP CHÁNH NGÔI, đàn giờ Tý ngày 27 tháng 2 năm Giáp Thìn (5/4/2024) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
ĐÒ CHUYẾN CHÓT CỦA BÁU GIỮ VÀO là nói chuyến đò này có đủ Phật bảo, Tăng bảo, Pháp bảo nên con trẻ hãy ráng giữ cho chặt vào để hưởng đặng hồng ân. BỌC XÁC CHA ĐẶNG PHƯỚC LONG HOA là nói thân xác con trẻ được điển Cha bọc xác là được phước sống còn để dự Long Hoa. LIÊN HOA hay HOA LIÊN là nói chữ 荷 này, phát âm HÀ hoặc HẠ nghĩa là Cây Sen tức Hoa Liên. Sấm Trạng Trình cũng đã huyền khải tên của Thánh Nhân, tức Thầy Nhân Thập, trong câu "Mộc Hạ Liên Đinh Khẩu, hứa cập Thánh Nhân danh." Tạm dịch: Mộc Hạ Liên Đinh Khẩu là danh tánh của Thánh Nhân. MỘC HẠ LIÊN là nói chữ 荷 này, viết với bộ Thảo, phát âm Hạ/Hà, nghĩa là Liên. Trong cách đánh đố Trạng Trình mượn chữ Mộc để chỉ bộ Thảo, vì Thảo 艹 và Mộc 木 đồng tông. ĐINH KHẨU là nói chữ 何 này, phát âm là HÀ. Hợp tự của chữ ĐINH 仃 và chữ KHẨU 口 thành chữ 何 này phát âm cũng là HÀ. Hợp tự của cụm chữ Mộc Hạ Liên và của cụm chữ Đinh Khẩu đều là nói về chữ HÀ tức HOA LIÊN. Như vậy MAU BƯỚC VỀ HOA LIÊN CHÁNH ĐẠO ngoài bạch văn hiển nhiên còn ẩn huyền nghĩa sấm ký là "mau tìm đến ông Hà học chánh đạo". HÀ là họ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, Đức Thể Nguyên của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, Giáo Tông Hữu Hình và Vô Vi của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN ĐẠO RA CẢM XÉT AI DUYÊN [Thiên Đạo trổ, xét duyên phận mỗi người]
LÒNG CON TRẺ KHẮP MIỀN BÁ TÁNH [cảm lòng con trẻ khắp muôn nơi]
QUY DÂN TỘC VỀ NƠI NHẬP THÁNH [gom dân tộc về nơi Thánh nhập cư độ]
ĐỘ NGŨ CHÂU AI THÁNH AI PHÀM. [độ khắp hoàn cầu, phân thánh phân ngôi]
[Khoán: Thiên Đạo Ra Quy Dân Tộc Về Nơi Nhập Thánh Độ Ngũ Châu Ai Thánh Ai Phàm. {Nghĩa: Thiên Đạo Huyền Không (Giáo Hội Trường Thiên, Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, Cao Đài Đại Đạo Trào Tam Xuất Thế) ra quy dân tộc Việt Nam về nơi Thánh địa, nhập độ khắp ngũ châu, phân định chúng dân ai Thánh ai phàm.}]
NGỌC CƠ KIM DIỆU LÃNH LỊNH HOÀNG [nay lãnh lịnh Ngọc Hoàng diệu cơ, anh minh]
HOÀNG PHỤ ANH MINH GIẢI PHÂN BAN [Hoàng Phụ giải phân ban, thái thượng thượng]
THƯỢNG THƯỢNG THÁI PHƯƠNG QUY CHUNG HƯỚNG [chung quy phương hướng,]
ĐẾ ĐẾ KỲ QUANG XUẤT SẴN SÀNG [kỳ quang Đế đề xuất sẵn sàng,]
PHỤ NGỌC KIM THÂN HẠ GIÁNG TRẦN [kim thân Ngọc Phụ hạ giáng trần gian,]
HOÀNG MINH ANH ĐẠO CHIẾU SOI THÂN [đạo uyên thâm chiếu soi thân Minh Hoàng,]
GIA THIÊN THÁI LÃO NGÀY THỐNG NHỨT [Thiên gia thái Lão đợi ngày thống nhất,]
GIA CHUYỂN VẬN HÀNH CHỌN HIỀN BAN." [ban chọn hiền Lão gia chuyển vận hành.]
[Khoán chữ thứ nhất: Ngọc Hoàng Thượng Đế Phụ Hoàng Gia Gia. Khoán chữ thứ hai: Cơ Phụ Thượng Đế Ngọc Minh Thiên Chuyển. ]
(Trích dẫn NGỌC KINH: TÂN ĐẾ ẤN VÔ THƯỢNG LẬP CHÁNH NGÔI, đàn giờ Tý ngày 27 tháng 2 năm Giáp Thìn (5/4/2024) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NGỌC MINH và MINH THIÊN là hai tôn danh của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế. Và trong đoạn sấm ký này đã khải lộ rõ là Ngọc Phụ Huyền Thiên xuống trần trong một xác phàm ("Phụ Ngọc kim thân hạ giáng trần"). Đến ngày Đại Đạo nhứt thống, Đức Ngài sẽ "chọn hiền ban". Lúc đó Đức Ngài cũng đã rất già rồi (thái lão). ANH 泱 tĩnh từ là sâu thẳm, mênh mông. ANH ĐẠO là Đạo sâu thẳm (uyên thâm). [Chú giải của người soạn.]
6.6
"KIM PHONG HÀ QUẢN LẬP HOA ĐÀI [nay Sơn Hà quản lập đài Hoa Kỳ]
HẢO KỲ DUYÊN KÝ TRẬN MỞ KHAI [đúng duyên lành phó chúc mở khai trận pháp]
NHÃN QUANG CƯỚC THỦ TỀ TẢO TẬN [Đạo Thiên Nhãn hết lòng vì sanh chúng]
THĂNG GIÁNG TIÊN THIÊN ĐẶNG TIẾP HÀI." [Tiên Thiên lên xuống hồng trần tiếp gót xưa]
[Khoán: Hoa Kỳ Mở Khai Nhãn Quang Cước Thủ. {Nghĩa: tại Hoa Kỳ mở khai Đạo Con Mắt.}]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chữ PHONG 峰 là ngọn núi, tương đồng với chữ SƠN. Chữ PHONG HÀ đồng nghĩa với chữ SƠN HÀ hay SƠN LIÊN, vì chữ 荷 này phát âm là HẠ hay HÀ và có nghĩa là Hoa Sen hay Liên. SƠN LIÊN là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. KÝ là phó chúc, ủy nhiệm, ủy thác. TRẬN MỞ KHAI là mở khai trận pháp, hoằng truyền nền Đại Đạo Việt tại Kỳ Hoa (chữ Hoa Kỳ ẩn trong câu 1 và 2). KIM PHONG HÀ QUẢN LẬP HOA ĐÀI, HẢO KỲ DUYÊN KÝ TRẬN MỞ KHAI là nói ông Hà cũng là ông Sơn Liên quản lập Bạch Ngọc Đài tại Hoa Kỳ (câu trên chữ Hoa câu dưới chữ Kỳ) có duyên lành được phó chúc (ủy thác) để mở khai trận pháp kỳ ba. NHÃN QUANG là con mắt chiếu sáng, biểu tượng của Đức Cao Đài. CƯỚC THỦ là chiết tự của chữ ĐẠO 道 gồm chữ Sước 辶 nghĩa là "đi, chạy" cận nghĩa với chữ CƯỚC nghĩa "chân để đi, đưa đường" (mượn chữ Cước nói chữ Sước) và chữ THỦ 首 nghĩa là "khởi thủy, đứng đầu". NHÃN QUANG CƯỚC THỦ có thể hiểu nôm na là "đạo con mắt". TỀ là sắp xếp công việc. TẢO là từ lâu. TẬN là hết lòng lo xong. TIẾP HÀI là bước tiếp, là tiếp nối công việc xưa (kiếp xưa). [Chú giải của người soạn.]
"ÂN THIÊN HỮU CHÚC CHỜ ỨC BẢY [Ân Thiên ủy thác dẫn đạo bảy ức niên]
MỚI MỞ TIÊN CUNG LỘ BIẾT NGÀI [Tiên Cung mới lộ cho biết Đức Ngài]
MỘT CHỮ THÀNH NGUYỆN NAY CƠ HÉ [vì một chữ nguyện thành, nay thiên cơ hé]
THIÊN TIÊN XỨ CŨ TỎA HOA LÀI. [Hà Tiên xứ cũ danh thơm tợ hoa lài]
[Khoán: Ân Thiên Hữu Chúc Mới Mở Tiên Cung Lộ Biết Ngài. {Nghĩa: Được Ân Thiên phó chúc sứ mạng nên Tiên Cung mới hé lộ cho biết Đức Ngài.}]
ĐẠI PHÁP HỒNG ÂN MAY ĐẶNG THÀNH [may được Đại Pháp chắc chắn đặng thành]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
ÂN THIÊN hay Thiên Ân là ân sủng của Thượng Đế ban Cho. CHÚC là phó chúc, ủy nhiệm, phó thác. ỨC BẢY hay BẢY ỨC là nói thời gian được phó chúc là 7 ức niên, tức dài 700 ngàn năm. CƠ HÉ THIÊN hay HÉ THIÊN CƠ (chữ Thiên nằm ở câu dưới) tức là lộ một chút cho biết. TIÊN XỨ CŨ TỎA HOA LÀI là nói Hà Tiên cố hương (xứ cũ), vùng đất ngày trước nỗi danh là "đất Phật người hiền", danh thơm như hoa lài tỏa hương. [Chú giải của người soạn.]
"XUỐNG TRẦN BỐN ỨC TÀNG LINH HIỂN [Bốn ức nguyên nhân tất cả đều xuống thế trần]
DI LẠC PHẬT ĐƯƠNG KIM THÂN HIỆN [cùng Di Lạc Phật đang tại thế trong nhân thân]
PHẬT TỔ QUAN ÂM HỘI MỘT ĐƯỜNG [Phật Tổ và Quan Âm Phổ Đà Sơn cùng một đàng]
CỬU DIỆU CHƯ LINH ĐỘ THÂU NHIÊN." [cùng Cửu Diệu Tinh Quân độ thâu chư linh tàng]
[Khoán: Di Lạc Đương Kim Thân Hiện, Phật Tổ Quan Âm Hội Một Đường. {Nghĩa: Di Lạc hiện nay đang có mặt dưới thế gian trong thân xác con người bằng xương bằng thịt. hội cùng với Phật Tổ, Quan Âm Phổ Đà Sơn Phật và Cửu Diệu Tinh Quân.}]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
BỐN ỨC TÀNG LINH là bốn ức nguyên nhân đã được hồi cựu vị, hai ức đã được Nhiên Đăng Cổ Phật độ về thời Nhứt Kỳ Phổ Độ và hai ức được Thích Ca Mâu Ni Phật độ về thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nay cả bốn ức nguyên nhân lại phải trở xuống trần để tiếp tay Di Lạc Vương Phật để độ cho toàn bộ 92 ức nguyên nhân cùng trở về trong Kỳ Ba này. ĐƯƠNG KIM là hiện nay đang. CỬU DIỆU là Cửu Diệu Tinh Quân gồm Thái Dương, Thái Âm, Thái Bạch, Mộc Đức, La Hầu, Kế Đô, Vân Hớn, Thổ Tú, Thủy Diệu. NHIÊN là hiển nhiên, rõ ràng là như thế. CHƯ LINH ĐỘ THÂU NHIÊN là nói hiển nhiên là để độ chư tàng linh đem về ngôi xưa. [Chú giải của người soạn.]
"LỜI GIẢNG DẠY TÙY LAI CƠ GIÁNG [tùy cảnh xuất điển lai giáng cơ đàn giảng dạy]
NGƯỜI CÓ DUYÊN CÔNG QUẢ XÁ ÂN [ai có căn lành hiến công quả được ân xá, Đức Thánh]
THÁNH CHƠN PHÂN TÁNH, CHƠN TÁNH PHÂN [là chơn phân tánh giáng sinh Thiên Mệnh]
THI VƯƠNG PHÁP LỚN, THIÊN MẠNG TÁI." [chơn tánh phân đáo trần triển Vương Pháp lớn]
[Khoán: Thánh Chơn Phân Tánh, Chơn Tánh Phân Thi Vương Pháp Lớn, Thiên Mạng Tái. {Nghĩa: Chơn Thánh (tức nói Đức Ngài Di Lạc) là bậc phân tánh giáng sinh. Phân chơn tánh xuống thế là để thi Vương Pháp lớn. Ngài là Đấng Trời tái lâm (Thiên mạng tái).}]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
6.7
"THỦ Ý HỮU QUI [vừa giữ ý vừa nương theo]
NHỨT THIÊN NHỨT LỘ [ngàn lần như một]
LAI HỘ PHÁP THIÊN [đến Cửa Pháp của Trời]
DIỆU HUYỀN VẠN PHÁP [vạn pháp ảo diệu sâu xa]
...
NGOẠT NGOẠT VÔ KỲ [tháng này qua tháng khác không định kỳ]
DIỆU LÝ ĐÁO THUYẾT [chu đáo thuyết giảng giáo nghĩa thâm sâu]
BẤT TUYỆT BẤT HÀ [liên tục không dứt, không khiếm khuyết]
XUÂN HẠ THU ĐÔNG [suốt bốn mùa xuân hạ thu đông]
CHIẾU ĐỒNG HẬU THẾ [soi sáng đồng khắp những thế hệ mai sau]
ĐẠI ĐẾ VƯƠNG HOÀNG [Đại Đế Vương Hoàng]
THIÊN VẠN VẠN THIÊN." [Đức Thiên Phật, Phật Thiên]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm ĐẠI ĐỒNG VƯƠNG PHẬT CHÁNH THẤT VIỆT NAM, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chữ THỦ Ý là giữ ý hoặc nhiếp tâm, nằm trong 4 chữ AN BAN THỦ Ý. AN BAN là niệm hơi thở. THỦ Ý là nhiếp tâm. "AN BAN là đại thừa của chư Bụt dùng để tế độ chúng sinh lênh đênh trên biển khổ" (trích lời Thầy Tăng Hội viết trong tựa kinh An Ban Thủ Ý). HỮU QUY là lại vừa nương theo. THỦ Ý HỮU QUI là vừa giữ ý lại vừa nương theo. NHỨT THIÊN là một ngàn lần hoặc là ÔNG TRỜI (Thiên Nhứt). NHỨT LỘ là một lối hoặc một lần hé lộ. NHỨT THIÊN NHỨT LỘ là ngàn lần cũng như một hoặc là Thiên Trời (Thiên Nhứt) một lòng (nhứt tâm) hé lộ. HỘ là cửa một cánh (MÔN là cửa 2 cánh) hoặc chỉ nơi lui tới. LAI HỘ PHÁP THIÊN là đến cửa Pháp của Trời. DIỆU là mầu nhiệm, thần kỳ. HUYỀN là áo diệu, sâu xa. DIỆU HUYỀN hay HUYỀN DIỆU là "Huyền chi hựu huyền chúng diệu chi môn" (Trích dẫn Đạo Đức Kinh, Lão Tử). DIỆU HUYỀN VẠN PHÁP là Vạn pháp mầu nhiệm thần kỳ, áo diệu sâu xa. THIÊN VẠN, VẠN THIÊN là nói Đấng Thiên Phật hay Đấng Phật Thiên, cũng là Đức Di Lạc Phật Vương. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN THỜI ĐỊA LỢI [đã đến lúc đất trời đều muốn thấy]
TIẾN TỚI ĐẠI ĐỒNG [nhân loại phải tiến tới xã hội đại đồng]
TRẦN HỒNG LẬP LẠI [lập lại trần hồng thời Thượng Ngươn Thánh Đức]
MẪU BÀY SẮP TIẾP [Kim Mẫu Diêu Trì sắp bày tiếp nối trong Kỳ ba]
NAM VIỆT NON SÔNG [Đức Ngài hóa sanh trên non sông Nam Việt]
ĐẠI ĐỒNG VƯƠNG PHẬT [là vị Vương Phật của cộng đồng ba cõi Thiên, Địa, Nhân]
CHÍNH THẤT VIỆT NAM [chính thất là người Việt Nam dòng giống Lạc Hồng]
KHẮP NĂM CHÂU TRỔ [giáo pháp của Phật Vương sẽ trổ khắp hoàn cầu]
ĐÁO LỘ THÁNH TIÊN [năm châu đều thấy được Thánh Tiên Phật hiện thế]
ĐỨC DUYÊN TÀI ĐẠO [đức duyên tài đạo đều có đủ]
NGÔI GIÁO HIỆN TIỀN [sẽ quy về Ngôi Giáo hiện tiền]
THIÊN TIÊN ỨNG HIỆN [Đấng Thiên Tiên Đạo Sư ứng hiện]
NHỦ TRUYỀN KỲ NHỨT [lời dặn dò: khó tin như huyền thoại]
CẢNH PHẬT DIỆU HUYỀN [một cảnh diệu huyền Phật Vương tại thế]
THIÊNG LIÊNG KHỞI LẬU." [Thiêng Liêng bắt đầu vén màn cho thấy]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm ĐẠI ĐỒNG VƯƠNG PHẬT CHÁNH THẤT VIỆT NAM, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NHỦ là dặn dò ân cần. TRUYỀN KỲ là những truyện lạ khó tin được lưu truyền. NHỨT CẢNH PHẬT DIỆU HUYỀN là khẳng định sẽ có một cảnh Phật diệu huyền. THIÊNG LIÊNG KHỞI LẬU là Thiên Thượng vén màn cho nhân gian thấy biết. [Chú giải của người soạn.]
6.8
"ÂN MAY SANH CHÚNG DI LẠC PHẬT [ân may sanh chúng gặp Di Lạc Phật]
TƯƠNG HUYỀN GIAN THẾ THUYẾT CƠ MẬT [cũng là Huyền Thiên dưới thế, thuyết cơ mật]
CHI HỮU CHI VĂN ĐÀN MỘT TIẾNG [có hữu hình có cả điển thi, khảy một tiếng đàn]
TIÊN PHẬT HẠ ĐÀNG THẾ PHÀM BÌNH... [là Tiên Phật xuống trần, thế phàm đặng bình yên]
THÂU CHI MẠNG HẠ ĐỀ DI LẠC [Di Lạc xuống bút đề thơ ký gởi lời từ mẫn]
KHOÁN TỪ NGÔN LỊNH THỦ BẮT XA [lệnh giao tận tay Ta nắm giữ từ lâu xa]
CHUNG TỌA THỊ MÀN BA HÉ THẬT [ngồi nhìn màn ba thật sự là tới lúc chung cuộc]
CỨU NHÂN SINH ĐÀO CÚC HỒNG CA...[các tinh hoa ráng ngăn đở cứu giúp nhân sinh]
PHÀM XUỐNG THẾ LẠC TA DI HỮU [xuống thế phàm Di Lạc Ta thân hữu hình]
ĐÁO TIỀN MÔN VÃN CỨU SINH LINH [đến trước Cửa Đạo để cứu vãn sinh linh]
ĐƯƠNG CÔNG ẨU LAI ĐÌNH LỘ NGỌC [đang công vụ Tây Phương, tới Ngọc Đình lộ diện]
ĐẶNG KHIẾT HÀI GẮNG PHÚC NGÀY NAY." [đặng dìu dắt con trẻ có phúc phận ngày nay]
[Khoán: Di Lạc Ta Đương Công Ẩu Lai Đình Ngọc Lộ. {Nghĩa: Di Lạc Ta đang công cán ở Phương Tây, tới nơi Tòa Đình Ngọc Đế lộ thân phận.}]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
CA là ngăn chận, hạn chế. ĐÀO CÚC HỒNG là nói các vị Liên Hoa hay Thiên Hoa xuống thế, gọi chung là tinh hoa giữa đời. ẨU là Âu Châu. Âu Châu đây không có ý nói riêng Europe mà nó nói toàn thể Phương Tây, tức là tất cả đất nước nằm ở Tây Bán Cầu, vì kinh tuyến 180 độ nằm giữa Thái Bình Dương chia quả địa thành Tây và Đông. CÔNG là công vụ, công cán. KHIẾT là dắt dìu. HÀI là giầy hoặc hài nhi tức con nít. NGỌC ĐÌNH là chỗ Tòa Đình của Bạch Ngọc Cung dưới thế. LỘ NGỌC HÀI là lộ dấu chân của Di Lạc. [Chú giải của người soạn.]
"NGẠO TỤC VINH THI ĐỀ TỐ HOẠT [coi thường vinh nhục chỉ lo triết giải thiên thơ]
ĐÁO TÂY KỲ NGẠN KHIẾT LỜI CA [trở về miền Tây Hoa Kỳ nghiêm túc trạm trổ lời thi ca]
TÂY MÔN VIÊN HẠ ĐẰNG KHẢI KHÚC [sao chép lại cho Tây Môn Trường Thiên lưu giữ]
TIẾT LỘ TRẦN HỮU PHÚC MUÔN DÂN." [lộ cho trần biết đây là phúc của muôn dân]
[Khoán: Đáo Tây Kỳ Ngạn Khiết Lời Ca Tiết Lộ Trần. {Nghĩa: Đến bờ Tây xứ Kỳ Hoa nghiêm túc trạm trổ lời đạo ca tiết lộ cho trần thế biết.}]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NGẠO là coi thường. TỤC VINH là vinh hoa thế tục. THI ĐỀ là triết giải thi thơ. TỐ HOẠT là thực hiện công việc. ĐÁO TÂY KỲ là đến miền Tây Hoa Kỳ, ý nói đến California của xứ sở Kỳ Hoa. KHIẾT LỜI CA là trang trọng nghiêm túc (ngạn) chạm trổ (khiết) lời đạo ca. TÂY MÔN VIÊN HẠ là Tây Viên Môn Hạ, ý nói giáo đồ của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên tại Phương Tây, Nam California. ĐẰNG là sao chép lại. KHẢI KHÚC là những đoạn đạo ca được khải lộ. [Chú giải của người soạn.]
"PHIÊU PHIÊU ĐÀN PHÍM CÀN CUNG LỘ... [bồng bềnh phím đàn Cung Thiên khải lộ]
PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH...[Phật đang tại hồng trần giải thoát linh]
NHÂN SINH ĐỒNG CHUNG ĐỒNG TẠO NGHIỆP [cũng là sinh nhân chung đồng cộng nghiệp]
DI LẠC PHẬT VƯƠNG TỎA ÁNH HÀO...[Di Lạc Phật Vương tỏa sáng ánh hào]
KIỀN KIỀN TAM THỂ ĐÀI THIÊN CHỦ [thời thừa lục long ba thể Ngọc Đài Thiên Chủ]
LẠC LẠC THÀNH THÂU PHÁT ĐẠI ÂN." [thong dong tự nhiên thâu phát đại hồng ân]
[Khoán: Phật Đương Hồng Trần. Di Lạc Phật Vương, Đài Thiên Chủ, Thâu Phát Đại Ân. {Nghĩa: {Phật đang có mặt tại thế gian. Di Lạc Phật Vương đang chủ quản Thiên Đài thâu phát đại ân cho sanh chúng.}]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
KIỀN KIỀN là Quẻ Bát Thuần Càn 6 hào dương, Nguyên Khang Hanh Lợi Trinh chi tượng: tượng vạn vật có khởi đầu, lớn lên, toại chí, hóa thành; Giảng Giải: (1) Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng; (2) Thoán Truyện cho rằng (a) quẻ này mang ý nghĩa về vũ trụ: Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa là rất cương kiện (tượng trưng cho trời), mà Trời thì có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật, có đức “hanh” vì làm ra mây mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính giữ nguyên khí cho thái hòa (cực hòa); (b) bậc Thánh Nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. TAM THỂ là Thể CHA (thể Đấng Tạo Hóa), thể CHÚA (thể Đấng Càn Khôn Chủ tể), thể THẦY (thể Đấng Đại Pháp Tôn). ĐÀI THIÊN CHỦ là chủ của Bạch Ngọc Đài, đài cao trên Bạch Ngọc Cung, là Cao Đài nơi Chí Tôn ngự triều. [Chú giải của người soạn.]
6.9
"GIÁNG LÂM PHÀM LỊNH BỔN HOÀNG NGHI [Cha Hoàng ban lịnh giáng lâm phàm]
LUẬT CÀN KHÔN VÔ HÌNH Y CHỈ [Thiên Luật Vô Hình phải y chỉ khâm tuân]
CHÍ TÔN MINH TÒA LỊNH OAI NGHI [Đấng Chí Tôn Tòa Lịnh oai nghiêm]
QUÂN XUẤT XỨ MỘT ÂM CỔ BẢN... [một phiên bản xưa Đế Con rời thiên xứ]
[Khoán: Giáng Lâm Phàm Lịnh Bổn Hoàng Nghi, Quân Xuất Xứ Một Âm Cổ Bản. {Nghĩa: Cha Thiên Hoàng ban lịnh Ngôi Hai phải giáng lâm phàm, Con Trời, cũng là một phiên bản xưa (ý nói 2 ngàn năm trước) nay một lần nữa rời Thiên Xứ.}]
KHẮP TÂY PHƯƠNG HUYỀN LỊNH THIÊN HOÀNG [Thiên Hoàng huyền lịnh khắp tam giới:]
KHAI MÙI VỊ HỒI KỲ CHÓI DẠNG [đến kỳ Minh Thiên trở về Tây Phương khai giáo]
ĐỊNH CHÁNH KHAI NHIỆM KỲ CỐ GẮNG [đã định nhiệm kỳ "chánh khai" nên hãy cố gắng]
VẠN LINH THẦN THỤ TÚC TRI ÂN [vạn vạn linh thần thọ đủ ân tri]
PHẬT MỞ LỰC VÔ VI TRẦN THẾ." [Đức Phật Ngài mở lực vô vi nơi trần thế]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm THAY THẤT CỔ AN BAN PHÁP ĐIỂN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chữ MÙI 未 còn phát âm là VỊ nghĩa "chưa từng, chưa hề". Chi thứ tám trong 12 địa chi là MÙI hay Dương, con Dê. Trong tiếng Hán Việt, chữ DƯƠNG con dê đồng âm với chữ DƯƠNG 昜 mặt trời. Vì thế, sử dụng trong sấm ký cụm chữ KHAI MÙI VỊ cũng có thể nói là tương đồng với KHAI DƯƠNG hay mặt trời mọc. Và như đã nói qua "mặt trời mọc" là sấm ngữ chỉ Minh Thiên. CHÓI DẠNG là nói hình dạng chói chang cũng là những chữ diễn tả mặt trời chiếu sáng. KHAI MÙI VỊ CHÓI DẠNG HỒI KỲ TÂY PHƯƠNG hay KHAI DƯƠNG CHÓI DẠNG HỒI KỲ TÂY PHƯƠNG nghĩa là mặt trời chiếu sáng Tây Phương trở lại, cũng là hàm ý thời kỳ Minh Thiên trở lại Tây Phương. Ngôi Hai Tây Phương Ki Tô Giáo Chủ từng huyền khải sẽ trở lại vào ngày Phán Xét. Nay là thời kỳ Ngôi Hai trở lại, thời kỳ của Thầy Nhân Thập trở lại. Trạng Trình gọi Ngôi Hai là Thầy Nhân Thập, tức vị Thầy bị đóng đinh trên thập tự giá, lấy hình ảnh Ngôi Hai Jesus (nhân) bị đóng đinh trên thánh giá hình thập tự (thập). Nhân vật lịch sử thì khác nhau, có Ngôi Hai Phương Đông và Ngôi Hai Phương Tây, có ba trào Ngôi Hai khác nhau, có Ngôi Hai danh Minh Thiên và Ngôi Hai danh Joshua (Jesus) nhưng thực ra LINH ĐIỂN NGÔI HAI thì chỉ có một, chỉ là hiện thế ở những thời điểm khác nhau ở những không gian khác nhau được thế gian đặt danh tánh khác nhau mà thôi. Cho nên Trào Tam Xuất Thế cũng chính là hiện thân trở lại của Ngôi Hai đúng với huyền khải năm xưa của Thiên Chúa (nên nhớ là Jesus chỉ huyền khải thời điểm trở lại là hai ngàn năm sau nhưng không nói sẽ hạ sanh ở đất nước nào, quốc tính nào, danh tánh gì). Với tín đồ Ki Tô Giáo thì Đức Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai. Đối với tín đồ Cao Đài, Thiên Khai Huỳnh Đạo, Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, Bửu Sơn Huỳnh Đạo, Bửu Sơn Kỳ Hương... và các mối đạo xuất phát từ nước Việt, thì Ngôi Hai Thiên Chúa và Đức Thiên Phật là cùng MỘT LINH ĐIỂN. Huyền Không Chí Thượng cũng khải lộ "Đức Phật Ngài mở lực vô vi nơi trần thế." Sấm ký Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba Thới cũng khải lộ như thế. Hình tượng của Di Lạc trên nóc Tòa Thánh Tây Ninh cũng khải lộ như thế. Trạng Trình cũng khải lộ như thế (Có "Chúa" Thầy Nhân Thập đi về + Thủy Trung tàng "Phật" Bảo Cái). [Chú giải của người soạn.]
"KHAI LỐI THẲNG GIÁP VÒNG BỐN BỂ... [giáp vòng thế giới vạch khai chánh đạo]
VÂN DU KHẮP NẺO LẤP NẮNG SƯƠNG [vân du khắp nẻo trải nắng dầm sương]
LỚP DIỆN TUỒNG HUỲNH THƯƠNG MIỀN THẾ [lớp tuồng tới Huỳnh Long vì thương thế]
TÁI NẠN TỚI ĐÂY DI THỂ [tái xuống trần thân Phật đi trong khổ nạn]
PHẬT ĐẠO TA BÀ NAM ĐẾ CƠ MÀN. [vì Đạo Ta Bà Nam Đế màn trời chiếu đất chịu cơ hàn]
GIÓ DẬP SÓNG BIỂN TRẦN HỒ CHUYỂN [sóng gió biển trần dồn dập, cho nên chuyển]
MẶT TRỜI MỌC MẤY PHƯƠNG, SUY DIỄN: [Minh Thiên một thân thao lược khắp Đông Tây]
PHẬN VÔ VI PHÂN THỂ TẠO RA [vì giai phận vô vi phân tánh hóa thân]
THAY THẤT CỔ AN BAN PHÁP ĐIỂN. [thay mặt bảy Cổ Phật để ban pháp điển]
[Khoán: Chuyển Mặt Trời Mọc Mấy Phương. Phận Vô Vi Phân Thể Tạo Ra, Thay Thất Cổ An Ban Pháp Điển. {Nghĩa: Chuyển vận Minh Thiên qua lại Đông Tây. Giai phận vô vi phân thể tạo ra hình tướng để thay mặt 7 vị Cổ Phật ban pháp điển.]
TẦM GÓC ĐỘ VÀO VÒNG HẠNH PHÚC [tìm phương đưa chúng vào vòng hạnh phúc]
GỞI TRỌN LÒNG THẮM ĐƯỢM ẨN TÀNG... [gởi trọn tấm lòng son dấu kín bên trong]
XÂY BỔN TUỒNG HAI CHỮ AN DÂN [ráng xây bổn tuồng vì hai chữ an dân]
XUÔI CẢNH NGƯỢC THUYỀN NAN THẾ SỰ." [xuôi ngược cảnh thuyền, thế sự ôi khó!]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm THAY THẤT CỔ AN BAN PHÁP ĐIỂN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HỒ là cho nên. MẶT TRỜI MỌC là ám chỉ Minh Thiên như đã từng giải thích rồi. CHUYỂN MẶT TRỜI MỌC MẤY PHƯƠNG là chuyển Đức Ngài Minh Thiên thực hiện công vụ bên Đông Phương (địa điểm chánh là tại Việt Nam) lẫn bên Tây Phương (địa điểm chánh là tại Caifornia, Hoa Kỳ). THẤT CỔ là nói 7 vị Cổ Phật trong quá khứ. Trong Kinh Ứng Kiếp có nói: “Hỗn độn sơ khai, định ra mười vị Phật chưởng giáo bàn 'Thất Phật Trị Thế, Tam Phật Thâu Viên'. Thất Phật Trị Thế gồm có (1) Xích Ái Phật, (2) Sanh Dục Phật, (3) Giáp Tam Xuân Phật, (4) Dậu Trường Canh Phật, (5) Không Cốc Thần Phật, (6) Long Dã Thị Phật, (7) Kế Thiên Phật. Bảy vị này là Thất Cổ Phật. Tam Phật Thâu Viên gồm có (8) Nhiên Đăng Cổ Phật, (9) Thích Ca Mâu Ni Phật, (10) Di Lạc Cổ Phật. Thời kỳ Thanh Dương thì chưởng Thiên Bàn là Nhiên Đăng Cổ Phật, chưởng Đạo Bàn là Phục Hy Cổ Phật, khảo Đạo là A Linh Vương, chủ trì mạt hậu thâu viên là Diêu Trì Kim Mẫu xuống thế tên Lão Mẫu. Hồng Dương Kỳ thì chưởng Thiên Bàn là Thích Ca Văn Phật, chưởng Đạo Bàn là Tứ Chánh Văn Phật (tức Khương Thái Công- Khương Tử Nha), khảo Đạo là Thân Công Báo, chủ trì mạt hậu thâu viên là Tây Vương Thánh Mẫu. Bạch Dương Kỳ có thể gọi là mạt kiếp. Trong thời Bạch Dương Kỳ chúng sanh tuy rằng đã tích lũy ác nghiệp, có rất nhiều nghiệt chướng, nhưng người thiện cũng có nhiều. Thượng Đế đại từ đại bi, bác ái hết mức, nào nhẫn tâm để thiện ác bất phân minh, ngọc đá cùng thiêu, cho nên lần thứ ba giáng cho Đại Đạo, Nho giáo ứng vận, phổ độ Tam Tào, phái Di Lặc Tổ Sư chưởng Thiên Bàn, Thủy Hỏa hai tinh tử là Tế Công Hoạt Phật và Nguyệt Tuệ Bồ Tát, giáng thế làm Cung Trường Tổ, Tử Huệ Tổ chấp trưởng Đạo bàn. Khảo Đạo là A Tu La Vương, chủ trì mạt hậu thâu viên là Trung Hoa Thánh Mẫu. Người thành Đạo là 96 ức nguyên nhân, tới dự Long Hoa Đại Hội đồng ghi tên vào 'Trùng Chỉnh Thiên Bàn', hưởng thanh phước và hồng phước 10 ngàn 800 năm." [Chú giải của người soạn.]
"KHAI THẾ GIỚI CHƯ HIỀN BÀN CỔ [Đức Bàn Cổ mở khai thế giới]
MỞ ĐẠO TRUYỀN TIẾT LỘ HÓA VAI [hóa bao vai truyền dạy Đạo Trời]
TRUYỀN KINH HÓA ĐẠO MẾN ÂN [truyền kinh hoằng pháp đã bao đời]
DI ĐÀ PHỔ ĐỘ TIÊN THẦN KHẮP NƠI. [Di Đà độ tiên thần khắp nơi]
[Khoán: Khai Thế Giới Bàn Cổ Hóa Vai, Mở Đạo Truyền Kinh. Di Đà Phổ Độ Tiên Thần Khắp Nơi. {Nghĩa: Là đấng khai thiên lập địa, Thượng Đế Bàn Cổ hóa vai mở đạo khai kinh. Ngài cũng là Đức Di Đà phổ độ thần tiên khắp cả vũ trụ pháp giới.}]
ĐỨC DI LẠC VỀ NGÔI CUNG ĐẠO [Đức Di Lạc nay về ngôi Đạo]
SỬA HIỀN NGU TÔN GIÁO ĐỔI THAY [sửa hiền ngu đổi thay tôn giáo]
NGŨ CHÂU ĐẠI ĐẠO PHẬT ĐÀI [dựng Phật Đài Ngũ Châu Đại Đạo]
THÁNH KHAI MỞ CỬA TỐT THAY MUÔN LOÀI. [cứu muôn loại Thánh mở Long Hoa]
[Khoán: Đức Di Lạc Về Ngôi, Tôn Giáo Đổi Thay. Đại Đạo Phật Đài Thánh Khai Mở Cửa.]
GIỤC TÁNH PHÀM LÒNG NGAY CHỈ RÕ [dứt tánh phàm giữ lòng ngay, chỉ rõ:]
LẠI TẦM THEO MÁU ĐỎ LẠC LONG [tầm theo con đường Lạc Long máu đỏ]
PHÂN RÀNH CỘI MẠCH NGOÀI TRONG [cội mạch ngoài trong sáng tỏa Rồng Tiên]
KHAI RA QUỐC ĐẠO MỘT DÒNG GIỐNG THIÊN." [khai ra Quốc Đạo một dòng giống Thiên]
[Khoán: Lòng Ngay Chỉ Rõ: Tầm Theo Lạc Long. Phân Rành Cội Mạch: Khai Ra Quốc Đạo Một Dòng Giống Thiên.]
"ĐỨC GIÁO CHỦ THANH THIÊN THƯỢNG TRÍ [Đức Chủ Giáo thanh thiên thượng trí,]
TÙNG THÁNH QUANG NHỨT KHÍ HÓA TỪ [tùng nhứt khí quang Thánh hóa từ,]
HẠ SANH LƯU QUỐC THẬP TỰ [hạ sanh cõi thế Quốc (ông) Thập Tự,]
LỰC HẠ QUỐC ĐẠO VÔ TƯ THIÊN HÀ." [thế danh Hà Quốc, hiệu Thiên Hà lực đạo vô tư]
[Khoán: Đức Giáo Chủ Thanh Thiên Thượng Trí, Tùng Thánh Quang Nhứt Khí Hóa Từ Hạ Sanh Quốc Thập Tự. {Nghĩa: Đức Chủ Giáo là bậc thượng trí từ tầng trời Tam Thanh Thiên tùng nhứt khí quang hóa Thánh hạ sanh cõi thế là Quốc Thập Tự.}]
(Trích kinh VẠN THÁNH. Huyền Không Thiên Thượng ban kinh ngày 23 tháng 12 năm Kỷ Hợi (17/01/2019). Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền, Thánh Đàn Nam Thành, tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
GIỤC TÁNH PHÀM là nói quăng bỏ tánh phàm, dứt bỏ tánh phàm. THANH THIÊN là nói Tam Thanh Thiên, 3 tầng trời cao nhứt trong 12 tầng trời (nếu chia ra thượng, trung, hạ mỗi tầng thì tổng cộng là 36 tầng) của Đại La Thiên, thuộc cõi Tối Đại Niết Bàn. Ba tầng trời này gồm Thái Thanh Thiên (tầng 12), Thượng Thanh Thiên (tầng 11, đức Di Lạc chưởng quản) và Ngọc Thanh Thiên (tầng 10, đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản). QUỐC THẬP TỰ là nói Quốc Thập Tự Công , tức Thầy Nhân Thập tên Quốc. QUỐC ĐẠO là nói Quốc Khách Đại Đạo (khai mở tại hoa kỳ). HẠ QUỐC cũng là HÀ QUỐC; vì chữ 荷 này phát âm là HÀ và HẠ, có nghĩa là Liên (Sen). THIÊN HÀ là nói ông THIÊN họ HÀ; cũng có nghĩa là ĐÓA SEN TRỜI, cũng là hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên. [Chú giải của người soạn.]
"MÁY THIÊN CƠ ĐỊA CHA TRẦN TRỊ [tùng máy Thiên Cha trần xử thế]
TỘI PHƯỚC CÂN CHÁNH LÝ PHÂN MINH [cân phước tội chánh lý chẳng xê]
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ CÔNG BÌNH [Ngọc Thượng Đế hóa hình sanh biến]
VÔ TƯ THIÊN HẠ HÓA HÌNH BIẾN SANH. [công bình vô tư giữa trần mê]
[Khoán: Máy Thiên Cơ: Địa [Cầu] Cha Trần Trị, Tội Phước Cân Chánh Lý Phân Minh, Ngọc Hoàng Thượng Đế Công Bình Vô Tư. {Nghĩa: Cha dưới thế trị địa cầu, cân tội phước, chánh lý phân minh. Ngọc Hoàng Thượng Đế công bình không tư tâm.}]
NGHỊCH PHẢN ĐỐI NGŨ HÀNH ĐIỆN XÍCH [tội nghịch phản đối diện ngũ hành điện xích]
ĐỨC CÙNG TRỜI BIẾN DỊCH THẬP QUANG [Đức cùng Trời thập tam thiên quang biến dịch]
TAM THIÊN KHỐI TỊCH TRÙNG NGÀN [khối tà vạy vô số ôi thôi trầm nịch]
MỘC DI THẢO HOÁN TAM ĐÀNG ĐƯỜNG VÔ. [như cây dời cỏ dạt (vào) ba nẻo u minh]
[Khoán: Đức Cùng Trời Biến Dịch Thập Quang Tam Thiên. {Nghĩa: Đức cùng Trời ánh sáng tầng tối cao (thập tam thiên quang) ứng hóa biến sanh (biến dịch).}]
BÁO CHÚNG TA TU BỔ CÙNG NHAU [hãy cùng nhau bổ báo phước lành]
VỀ QUỐC ĐẠO RỒI TRAU TỰ TỈNH [tự tỉnh thức rồi về với Quốc Đạo dồi trau]
MỘT LÒNG CHỦ GIÁO HUYỀN MINH [Chủ Giáo Huyền Minh mang xác hình Thầy Nhân Thập]
MANG HÌNH THÁNH THẬP TẠO BÌNH QUỐC DÂN. [một lòng tạo an bình dưới thế cho dân]
[Khoán: Báo: Quốc Đạo Chủ Giáo Huyền Minh Mang Hình Thánh Thập. {Nghĩa: Báo cho biết: Đạo Quốc là Chủ Giáo hiệu Huyền Minh, mang xác hình Thánh Thập Tự.}]
(Trích kinh VẠN THÁNH. Huyền Không Thiên Thượng ban kinh ngày 23 tháng 12 năm Kỷ Hợi (17/01/2019). Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền, Thánh Đàn Nam Thành, tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
ĐỊA là nói địa cầu. TRẦN là nói trần thế. VÔ TƯ là nói không tư vị một ai. NGŨ HÀNH là năm hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; Ngũ Hành viết hoa là nói 5 linh lực chủ quản 5 hành này. ĐIỆN là nói điển. XÍCH là trừ bỏ, giết sạch. THẬP QUANG TAM THANH THIÊN hay THẬP TAM THANH THIÊN QUANG là nói ánh sáng tầng Tối Đại Niết Bàn (Thập Tam Thanh Thiên), cũng là nói ánh sáng huệ mạng của Như Lai. KHỐI TỊCH là nói khối tà vạy, không ngay thẳng. TRÙNG NGÀN là nói ngàn trùng, nhiều vô số. [Chú giải của người soạn.]
ĐỨC CÙNG TRỜI BIẾN DỊCH THẬP QUANG TAM THIÊN là nói ĐỨC cùng TRỜI Thập Tam Thanh Thiên quang ứng hóa biến sanh. TRỜI Là Đấng Tạo Hóa Còn ĐỨC Của Trời là hóa dục quần sanh. ĐỨC CÙNG TRỜI cũng là nói TRỜI không bóng không hình, ẩn trong xác hình đi giữa hồng trần chính là ĐỨC. Chúa Cha là TRỜI hiện thân Thập Tự Công Jesus đi giữa thế gian là ĐỨC của TRỜI. “Cha ta luôn ở cùng Ta” chính là ĐỨC cùng TRỜI. [Chú giải của người soạn.]
KHỐI TỊCH TRÙNG NGÀN MỘC DI THẢO HOÁN TAM ĐÀNG ĐƯỜNG VÔ là nói khối tà vạy nhiều vô số, như cây dời cỏ dạt trôi vào 3 nẻo u minh. BÁO là nói cho hay, cho biết. TRAU là nói trau dồi. HUYỀN MINH là đạo hiệu của Đức Ngài Huyền Thiên dưới thế. MỘT LÒNG TẠO BÌNH QUỐC DÂN là nói một lòng tạo tác thế giới bình an cho chúng dân, là “Bình An Dưới Thế Cho Người Thiện Tâm.” QUỐC ĐẠO CHỦ GIÁO HUYỀN MINH MANG HÌNH THẬP TỰ là nói Chủ Giáo Quốc Khách Đại Đạo hiệu Huyền Minh là Thầy Nhân Thập (mang hình Thập Tự). [Chú giải của người soạn.]
Toàn bộ nội dung sấm thi 6.9 khải lộ rất nhiều chi tiết về việc Đức Phật Vương Di Lạc xuống thế. Ngài nhận lịnh của Cha Thiên Hoàng hạ phàm thực thi sứ mạng ("giáng lâm phàm lịnh bổn Hoàng Nghi"), quay về Phương Tây ("khắp Tây Phương huyền lịnh Thiên Hoàng, khai Mùi Vị hồi kỳ chói dạng") vạch khai chánh đạo ("giáp vòng thế giới vạch khai chính đạo") xuôi ngược ngược xuôi dòng đời chịu bao gian khó ("xuôi ngược cảnh thuyền, thế sự ôi khó!"), một thân thao lược hết Đông tới Tây ("Minh Thiên một thân đôn đáo Đông Tây"), cũng vì Thiên Mệnh xuống thế ("phận vô vi phân tánh hóa sanh") thay mặt 7 vị Phật Cổ ban pháp điển cho thế ("thay thất phật an ban pháp điển"), tìm phương dắt chúng vào đường hạnh phúc ("tìm phương đưa chúng vào vòng hạnh phúc") xây tuồng giác chúng an dân ("ráng xây bổn tuồng vì hai chữ an dân"). Vì thương chúng ("gởi trọn lòng thắm đượm ẩn tàng") cho nên Phật xuống thế đi trong khổ nạn cõi Ta Bà ("thương miền thế, tới đây di thể Phật đạo Ta bà Nam Đế cơ hàn"). NAM ĐẾ là nói về tiền kiếp của Phật từng là Vua Lạc Long của Nam Bang Hồng Lạc, vấn đề này sẽ được giải trình sau. [Chú giải của người soạn.]
6.10
"RÕ XEM THÂN CHIẾU ĐIỂN OAI THẦN [rõ xem điển Oai Thần chiếu xác thân]
GIÚP CHÁNH PHÁP TIẾN DẦN BỨC PHÁ... [giúp chánh pháp tiến dần tới đột phá]
LỘNG ĐÀI LIÊN PHÍA CẢNH XA XA [lồng lộng cảnh liên đài phía xa xa]
GIẢI TRÌNH THƠ CHƯƠNG TÒA THIÊN CẢNH [Chương Tòa giải trình thơ thiên cảnh]
PHÁP BẢO KHAI HẠN SẮP THUYỀN ĐĂNG...[hạn sắp khai pháp bảo thuyền đạo đăng quang]
TÙNG SANH GIÁP MỘC PHỈ TRÍ TÀI [Bóng Tùng sanh Giáp Mộc, không chỉ có trí tài,]
VÔ SÔNG THUYẾT NGẠN ĐÁO LAI CHI HÀI [đưa người qua bỉ ngạn, gót chân xưa đáo lại,]
VŨ NGUYÊN MỘC HỮU CHI GIAI [Nhân Thập có từ thuở, vũ trụ mới khai nguyên]
ĐẮC THỜI LAI VĨ HUÊ KHAI NHỨT TIỀN...[nay đến lúc hoa đẹp, lại nở trước sân tiền, Đế]
LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN."[Vô Cực Huyền Thiên, Di Lạc tái lâm truyền]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Nếu hai chữ TÙNG SANH lấy ra từ trong thành ngữ "Thảo Mộc Tùng Sanh" thì nó có nghĩa là "Cây cỏ tụ tập sinh sôi." Nhưng nếu là TÙNG SANH GIÁP ... MỘC thì ý của nó có thể là (1) Cội Tùng sanh năm thiên can GIÁP ngũ hành MỘC, hoặc (2) Thuận theo tái sanh năm thiên can GIÁP hành MỘC. PHỈ TRÍ TÀI là không chỉ có trí tài. THUYẾT [BỈ] NGẠN ĐÁO LAI CHI HÀI là bước xưa trở lại đưa người qua sông. VŨ NGUYÊN là vũ trụ khai nguyên. MỘC chiết tự là NHÂN THẬP, là nói Thầy Nhân Thập tức Thiên Chúa Ngôi Hai. GIAI là cùng một lượt với nhau. VŨ NGUYÊN MỘC HỮU CHI GIAI là nói Thầy Nhân Thập có từ thuở khai nguyên vũ trụ. ĐẮC THỜI VĨ HUÊ KHAI NHỨT TIỀN là nói đến lúc đình tiền nhứt huê khai (đến lúc một đóa hoa đẹp nở trước sân). [Chú giải của người soạn.]
"HUYỀN LÂM TIÊN CẢNH MỘT BẦU KHÔNG [trăng non tiên cảnh một bầu không]
TỰA NGUYỆT TRÒN VỀ CẢNH LAI BỒNG [tợ trăng tròn về cảnh Lai Bồng]
NGOẠN NHÔ TẠO HÓA DÀNH MỘT CẢNH [Tạo Hóa dành ló cảnh ngoạn mục]
MỘT BẦU HƯ KHÔNG MÂY XANH TRONG." [một bầu hư không mây xanh trong]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HUYỀN là trăng thượng huyền, giai đoạn đầu khi mặt trăng và mặt trời có cùng kinh độ hoàng đạo, là lúc mặt trăng mới hiện hình liềm như vòng cung, có thể nhìn thấy ở vị trí thấp trên đường chân trời phía tây ngay sau khi mặt trời lặn và trước khi mặt trăng mọc. Đồng thời HUYỀN cũng ẩn nghĩa sấm ký là Huyền Thiên. Đoạn sấm thi trên là một ẩn dụ về sự hóa thân xuống thế của Huyền Thiên và sứ mạng mà Đức Ngài phải thực hiện. Trong giai đoạn đầu là "trăng non" và đến khi tỏa sáng là lúc "trăng tròn" và "cảnh ngoạn mục" là Đấng Tạo Hóa đã dành riêng cho Đức Ngài. [Chú giải của người soạn.]
"THÚ DƯ PHANG CẢNH CANH KHUYA LẠNH [ý theo cảnh, thuyền du sông đêm khuya lạnh]
GIẢI QUẢ QUA SÔNG NGÀN DẬM THÀNH [giải hết nhân quả, qua sông ngàn bước thành]
CHỐN TRỜI CAO THẨM THIÊN ĐƯỜNG SÁNG [từ ThiênĐườngSáng, chốn trờicao cao thẩm]
ẨN PHÀM HUYỀN DIỆU NGUYỆT THÀNH HOÀNG. [Huyền Thiên ẩn phàm, trăng vàng diệu hóa ảnh]
HUYỀN CƠ RẼ CHỮ PHƯƠNG NAM THÁNH [huyền cơ kẽ vạch Phương Nam Thánh]
CHƯA ĐỊNH CHƯA PHÂN TRỞ CƠ ĐÀNH [bây giờ chưa phân nên phải đành]
RÁNG NHÌN GỐC CỘI CHỪNG NĂM HỈ [ráng dõi Bóng Tùng vài năm thấy]
MÁY TẠO ĐỔI XOAY CHẲNG ĐẶNG LÀNH." [Máy Tạo chuyển xoay chẳng đặng lành]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THÚ là ý vị. DƯ là nương theo. PHANG còn đọc là PHẢNG là cái du thuyền, như trong thơ Bạch Cư Dị "Đông chu tây phang tiễu vô ngôn, duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch." Dịch là: Những cái du thuyền bên đông bên tây lặng lẽ đi, giữa dòng chỉ thấy vầng trăng thu phai nhạt). THÚ DƯ PHANG CẢNH CANH KHUYA LẠNH là nói ý theo cảnh thuyền du trên sông đêm khuya lạnh. CHỐN chỉ không gian. THỜI chỉ thời gian. CHỐN THỜI CAO THẲM là nói thời không vô hạn vô biên. CHỐN THỜI CAO THẲM THIÊN ĐƯỜNG SÁNG là nói cõi thời không vô hạn vô biên có một Thiên Đường Sáng. ẨN PHÀM HUYỀN DIỆU là nói huyền diệu núp sau cái phàm tục. NGUYỆT THÀNH HOÀNG là hình ảnh trăng hóa ngập ánh vàng. ẨN PHÀM HUYỀN DIỆU NGUYỆT THÀNH HOÀNG thì ý thứ nhứt là "huyền diệu chứa đầy trong sắc tục, trăng hóa ánh vàng chiếu muôn nơi." và, ý thứ hai là "Huyền Hoàng ẩn phàm thành diệu nguyệt.", cả hai ý đều ám chỉ Huyền Thiên Thượng Đế, tá danh Di Lạc, hóa thân xuống chốn phàm trần như vầng trăng lặng lẽ chiếu ánh vàng soi sáng khắp nhân gian. [Chú giải của người soạn.]
Toàn bộ nội dung đoạn sấm thi 6.10 chứa những điều được Thiên Thượng khải lộ về hóa thân của Đức Huyền Thiên dưới thế (Chương Tòa giải trình thơ thiên cảnh). Là Di Lạc Huyền Thiên dưới thế (Vô Cực Huyền Thiên Di Lạc tái lâm truyền). Ẩn trong lời sấm ký sẽ tìm thấy lờ mờ nguồn gốc (Nhân Thập có từ thưở khai nguyên vũ trụ), thế danh (gót hài đáo lai bỉ ngạn, Hà thuyết đạo vô vi), thời điểm xuống thế (năm Giáp Mộc), sứ mạng (giúp chánh pháp tiến dần đột phá), những thử thách trên hành trình (Tạo Hóa dành ló cảnh ngoạn mục), thành tựu (đến lúc một đóa hoa đẹp nở trước sân ... ngàn bước chân thành rồi, giải quả qua sông), cách sống và tu tập trong thế gian (ẩn phàm huyền diệu trăng hóa vàng), thời điểm xuất lộ (hạn sắp khai pháp bảo thuyền đạo đăng quang). Và một khi đã xuống thế và bắt đầu hành trình gian nan thì Đức Ngài được ví như vầng trăng non thượng huyền (trăng non tiên cảnh một bầu không) và tới cuối hành trình và trở về ngôi xưa thì trăng đã tròn đầy và tỏa sáng (về cảnh lai bồng tợ trăng tròn). [Chú giải của người soạn.]
6.11
"ĐỨC THIÊN HOÀNG HẠ ĐỀ KHÁN CAO [Đức Hoàng Thiên Thượng Đế đã ban lệnh]
TÂN CẢI CÁCH GIÁO TRUYỀN THIÊN ĐẠO [giáo truyền Thiên Đạo đổi mới thế gian]
THẠNH HÒA BÌNH PHẬT ĐẠO NGHÌN THU [tạo nền Phật Đạo ngàn năm hòa thạnh]
AN LẠC HÓA CẢNH TRẦN DI BẢO." [Di Lạc an hóa cảnh trần Phật lưu danh]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm TÂN CẢI CÁCH GIÁO TRUYỀN THIÊN ĐẠO, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
BẢO là Phật Bảo, là nói Di Lạc Phật, Đức Ngài sẽ giáo truyền Phật Đạo trong Kỳ Ba là thời kỳ Thiên Đạo được giáo truyền, vì thế sấm ký Kim Cổ Kỳ Quan của Ông Ba Thới mới có huyền khải "Nhị Thiên túc vật ngoại Phật nội Trời". [Chú giải của người soạn.]
Qua những đoạn trích dẫn khá dài, những lời sấm ký huyền khải rất nhiều điều về Đức Phật Vương Di Lạc. Chúng ta có thể rút ra vài điều quan trọng như sau:
1. Đức Phật đang có mặt tại trần cứu độ nhân sanh trên toàn cầu, "Di Lạc Phật ra cứu chúng sanh" và cứu vớt 92 ức nguyên nhân, tức tàng linh, đã xuống thế từ lâu vẫn chưa về ngôi xưa, "Phật đương hồng trần giải thoát linh".
2. Đức Phật xuống trần khai Quốc Đạo và mở Hội Long Hoa phong vị cho hiền tài tuấn kiệt đạo đức được chọn, "Long Hoa Mở Hội Khai Quốc Đạo".
3. Đức Phật thay mặt 7 vị Cổ Phật ban bố pháp bảo cho thế trần, thông qua kim thân của Đức Ngài các vị Cổ Phật có thể ẩn mật ban pháp điển cho thế gian, "thay Thất Cổ an ban pháp điển".
4. Đức Phật là người Việt, giáng sanh trên đất Việt, là vị Vương Phật của ba cõi Đại Đồng, "Đại Đồng Vương Phật chánh thất Việt nam".
5. Đức Phật thật ra là hóa thân của Huyền Thiên Thượng Đế xuống thế để lập lại cõi trần, "Lâm Truyền Tái Khởi Vô Huyền Lạc Thiên".
6. Đức Phật truyền đạo Tứ Ân dạy dân tu hiền lập đức và đồng thời mở cửa bí mật hồng truyền Đại Pháp Vô Vi lập ngôi chánh đẳng giác vô thượng, "Đại Pháp hồng ân mai đặng thành" và "Tân Đế ấn Vô Thượng Lập Chánh Ngôi".
7. Đức Phật xuống thế giáo truyền Thiên Đạo để đổi mới đạo pháp Kỳ Ba và đổi mới thế gian, thành lập Thánh Đức Tân Dân, "Tân Cải Cách Giáo Truyền Thiên Đạo".
8. Đức Phật cũng chính là Thiên Chúa Ngôi Hai trở lại sau hai ngàn năm, đúng như lời huyền ký năm xưa, "một phiên bản xưa Đế Con rời Thiên xứ... đến kỳ Minh Thiên trở về Tây Phương khai giáo".
“Và Ngài đã đem họ ra khỏi cảnh gian truân. Ngài khiến bão yên lặng, sóng biển yên lặng. Sau đó, họ vui mừng vì họ được yên tĩnh, vì vậy Ngài đã hướng dẫn họ đến nơi trú ẩn mong muốn của họ, đến bến cảng an toàn. Hãy để họ cảm tạ Đức Giê-hô-va vì sự nhân từ của Ngài, Và vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm cho con cái loài người!” Mượn lời Thi Thiên 107:38-31 để tán thán công đức Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế xuống thế "hiện thân Di Lạc trần gian". [Chú giải của người soạn.]
6.12
"NGỌC PHÁP KỲ BA MỘT ĐẠO KHAI [Chơn Pháp Bạch Ngọc Kỳ Ba một đạo khai]
HOÀNG THIÊN HẬU THỔ GIÁP CAO ĐÀI [tiếp nối Cao Đài của Hoàng Thiên Hậu Thổ, Thầy]
THƯỢNG NGƯƠN THẦY LẬP THIÊN TRƯỜNG ĐẠO [lập Thiên Trường Đạo ngươn thượng]
ĐẾ TỎA KIM QUANG HÓA BỬU ĐÀI. [Đế Chúa tỏa rực kim quang hóa bửu đài]
[Khoán thủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế. Khoán: Ngươn Thầy Lập Thiên Trường Đạo.]
THIÊN PHẬT HOẰNG DƯƠNG CHÁNH ĐẠO NÀY [Đức Thiên Phật hoằng dương]
NHÃN TÂM KHAI NGỘ KỂ TỪ NAY [chánh đạo này, khai ngộ nhãn tâm kể từ rày]
HUYỀN VI ĐẠI CHUYỂN THAY TRỜI ĐẤT [đất trời thay đổi huyền vi dịch chuyển lớn]
KHÔNG TÁNH ĐẠO HUỲNH BỬU PHÁP KHAI." [khai thị pháp bảo huỳnh đạo vô vi]
[Khoán thủ: Thiên Nhãn Huyền Không. Khoán yêu: Hoằng Khai Đại Đạo.]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
NGỌC PHÁP là Chơn Pháp của Ngọc Hư Cung. HOÀNG THIÊN HẬU THỔ là CHA TRỜI Thiên Hoàng, HẬU THỔ là MẸ ĐẤT Diêu Trì Địa Mẫu. GIÁP là liền kề, tiếp biên. Bốn câu đầu ý nói THIÊN TRƯỜNG ĐẠO là CHƠN PHÁP NGỌC HƯ CUNG liền kề một ĐÀI CAO chí thượng, cùng MỘT NỀN ĐẠI ĐẠO do Cha Thượng Đế, Mẹ Diêu Trì lập ra. Tuy nhiên, CAO ĐÀI TAM KỲ PHỔ ĐỘ là CAO ĐÀI HỮU HÌNH chịu trách nhiệm phổ độ nhân sinh nước Việt còn CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM, dưới danh xưng Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên khai mở tại Hoa Kỳ năm 2017, chịu trách nhiệm hoằng hóa CHƠN PHÁP NGỌC HƯ trong KỲ BA thời Thượng Ngươn Thánh Đức. CHÁNH ĐẠO NÀY là nói Chơn Pháp Kỳ Ba của Cung Ngọc Hư, Điện Linh Tiêu, Bạch Ngọc Kinh. BỬU PHÁP hay PHÁP BẢO bao gồm hiển pháp (thánh giáo, kinh, kệ, giảng, thiên thơ đồ trận) và mật pháp (nội truyền tâm pháp, phương pháp luyện đạo). KHÔNG TÁNH là nói tánh không của Thiên Đạo, tức là nói hai chữ Vô Vi. KHÔNG TÁNH ĐẠO HUỲNH BỬU PHÁP KHAI là nói khai thị pháp bảo huỳnh đạo vô vi. [Chú giải của người soạn.]
THIÊN PHẬT là một đấng xuống thế hiện thân Ông Phật nhưng cốt là Ông Thiên Chúa Ngọc Đế. Trong cuốn Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba Thới có huyền khải "Nhị Thiên túc vật ngoại Phật nội Trời" tức là nói "Nhị Thiên Ngọc Đế hiện thân bên ngoài là Phật ẩn bên trong là ông Trời", nói nôm na là "Nhị Thiên thân phật cốt Trời". Chữ Túc 玉 còn đọc là Ngọc và nghĩa là Ngọc. Còn chữ Vật 沕 đọc là MẬT và nghĩa là ẩn. Ngọc là nói Ngọc Đế, ông Trời. ông Ba Thới đã từng khải lộ trong cuốn Kim Cổ Kỳ Quan, bài Cáo Thị:
"TAM TÀI NHỨT TÁNH VI THÁNH TAM TRỜI
DĨ HẬU LẬP ĐỜI PHÂN TRỜI PHÂN PHẬT
NHỊ THIÊN TÚC VẬT NGOẠI PHẬT NỘI TRỜI
TÂY ĐẶT THUẬN THỜI LÒNG NỘI MẸ VIỆC NHẸ NGOẠI CHA"
(Trích dẫn KIM CỔ KỲ QUAN, bài Cáo Thị, của ông Ba Thới, 1915, Hòa Hảo.)
TAM TÀI là nói Thiên Địa Nhân đồng vị. Thiên đây là Cha. Địa đây là Mẹ. Nhân đây là "Nhị Thiên Túc ngoại Phật nội Trời". TAM TÀI NHỨT TÁNH là CHA-MẸ-CON ba ngôi trong một thể hữu hình, cùng một thể tánh. VI THÁNH TAM TRỜI ...LẬP ĐỜI là nói Thánh Nhân vốn là Trời xuống thế lần thứ ba thiết lập Trào Tam Đại Đạo dẫn người vào ngươn Thánh Đức Tân Dân. NHỊ THIÊN là ông Trời dưới thế còn được tôn xưng là Ngôi Hai. TÂY là nói Tây Phương, nói chính xác là HOA KỲ. TÂY ĐẶT THUẬN THỜI là thuận theo thiên thời khai mở (đặt) Đại Đạo tại xứ Hoa Kỳ. Tại sao đặt tại Hoa Kỳ là thuận thời? Thiên Cơ do Trời xếp đặt rồi và đã gởi dòng người tỵ nạn ra hải ngoại sau 1975. LÒNG NỘI MẸ VIỆC NHẸ, NGOẠI CHA là có ý nói Ngôi Hai Trào Tam có ẩn phần "Khôn Đế" Vô Cực Kim Mẫu Diêu Trì bên trong (lòng nội) nên có tánh mềm mỏng dung thứ của Mẹ đối với thế gian, còn bên ngoài thì thể hiện tánh cương liệt của "Càn Đế" Cha Vô Cực Huyền Thiên để thực hiện Hoàng Đồ Đại Đạo của Đỉnh Thiên (hiển lộ). Tuyệt diệu thiên thơ, mấy ai thấu đáo! [Chú giải của người soạn.]
"NGỘ TÂM KHÔNG TÁNH ĐẠO HOẰNG KHAI [Đại Đạo hoằng khai tâm ngộ tánh không]
GIÁO PHÁP VÔ VI CÕI NGỌC ĐÀI [KHÔNG là Vô Vi giáo pháp cõi Đại Đồng]
THIÊN NHÃN BỬU TÒA KHAI TẤT CẢ [Ngọc Đài khai mở tất cả Bửu Toà Thiên Nhãn]
PHẬT NHÂN, TAM GIÁO GIÁP CAO ĐÀI. [phật nhân tam giáo giáp Cao Đài một Huỳnh tông]
[Khoán thủ: Ngộ Giáo Thiên Phật Không Tánh Vô Vi Bửu Tòa Tam Giáo.]
LINH TIÊU ĐIỆN ĐIỂM NGÀY KHAI GIÁO [Linh Tiêu Điện điểm khí ngày khai giáo, trường]
BẠCH NGỌC CUNG TRƯỜNG ĐẠO THƯỢNG NGƯƠN [đạo thượng ngươn Bạch Ngọc Cung,]
LIÊN TÔN GIÁO ĐẠO THIÊN TRƯỜNG [Liên Hoa Tôn giáo đạo tại Thiên Trường]
LONG HOA ĐÃ MỞ TỪ MƯỜI THÁNG BA." [Long Hoa đã mở từ 10 tháng 3 năm Thìn Giáp]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
NGỌC ĐÀI là Đài Cao trên Ngọc Hư Cung, chỗ Thượng Đế ngự. PHẬT NHÂN bao hàm hai nghĩa: (1) Phật trong nhục thân; (2) người có tâm Phật, người theo Phật, Phật tử. LIÊN là Hoa Sen, cũng là HÀ. TÔN là Thiên Tôn. LIÊN TÔN là Liên Hoa Tôn, ám chỉ vị THIÊN PHẬT (ngoài PHẬT trong TRỜI) là vị PHẬT NHÂN (Phật trong xác phàm), cũng là nói Thiên Tôn họ Hà. Còn theo bạch văn nói chung thì Liên Hoa Tôn không phải là Phật hiệu mà là một danh từ chỉ chung bất cứ vị Phật nào, bởi vì vị Phật nào cũng là một đóa liên hoa, cũng là một đấng Thiên Tôn (Thiên Nhân Sư). THIÊN PHẬT cũng không phải là hiệu mà là chân tướng đặc thù của một vị Phật Tôn xuất hiện trong kỳ ba này, chân tướng "ngoài PHẬT trong TRỜI", nói cho rõ hơn là ông PHẬT này là ông TRỜI hóa thân xuống thế. ĐẠO THIÊN TRƯỜNG là trường đạo của BẠCH NGỌC CUNG và do Đức Thiên Phật/Liên Hoa Tôn giáo đạo. LIÊN TÔN GIÁO ĐẠO THIÊN TRƯỜNG là nói Liên Hoa Tôn giáo đạo tại Thiên Trường tức nói Thiên Tôn họ Hà giáo đạo tại Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên. MƯỜI THÁNG BA là ngày 10 tháng 3 năm Giáp Thìn (18/4/2024), ngày chính thức "khai giáo" THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. [Chú giải của người soạn.]
"GIÁO TÔNG ĐẠO KỲ HOA PHÁP CẢNH [Giáo Tông Huỳnh Đạo đang tại Hoa Kỳ cảnh pháp]
CÕI NGỌC ĐÀI ĐÍNH CHÁNH QUẦN SANH [Ngọc Đài đính chính để quần sanh biết rõ]
THIÊN LONG, HỘ PHÁP, TAM THANH [cùng với Tam Thanh, chư Thiên Long và hộ pháp]
HUYỀN VI ỨNG DIỆU HOÀN THÀNH ĐẠO KHAI. [tiếntrình lậpđạo khaigiáo nay hoànthành]
BÁT MÔN TRẬN MỞ NGÀY GIỖ TỔ [Bát Môn Trận mở vào ngày giỗ tổ 18 Vua Hùng]
CỬU TRÙNG THIÊN ĐÃ LỘ RỒI ĐÂY [thế là Cửu Trùng Thiên đã hiển lộ rồi]
ĐIỂN THIÊN CHIẾU GỘI ĐÔNG TÂY [từ đây điển thiên chiếu gội Đông Tây]
THAY TÂM ĐỔI TÁNH CHUYỂN XOAY NGŨ HÀNH." [chuyểnxoay ngũhành thaytâm đổitánh]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
ĐÍNH là hiệu đính, rà soát, kiểm tra lại các lỗi suốt quá trình đã qua, sau đó tiến hành sửa lỗi và điều chỉnh cho đúng. CHÁNH là chánh thức. ĐÍNH CHÁNH là CHÁNH THỨC HIỆU ĐÍNH quá trình “Giáng Đạo – Khai Giáo – Lập Đời Tân Dân” của Đức Chí Tôn để hiểu cho đúng Thiên Cơ và "điều chỉnh lại đạo lộ" cho đúng với chương trình Lập Đời Thánh Đức Tân Dân của THẦY. CÕI NGỌC ĐÀI ĐÍNH CHÁNH QUẦN SANH là nói Ngọc Hư Cung đính chánh những sai lầm của quần sanh cho quần sanh hiểu rõ mà điều chỉnh "thái độ và lộ trình đạo" của mình chứ không phải đính chánh với quần sanh sai lầm của Ngọc Hư Cung (không có chuyện Ngọc Hư Cung sai lầm). TAM THANH là các đấng Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn, tức phân tánh mà hóa thành, hiện hữu cùng với đất trời từ thuở khai nguyên vũ trụ Đại La Thiên; Đại diện là Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn, Đức Đạo Đức Thiên Tôn (Đức Thái Thượng Đạo Tổ), Đức Linh bảo Thiên Tôn (Đức Thông Thiên Giáo Chủ). [Chú giải của người soạn.]
Ngày chính thức "khai giáo" THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA đồng thời cũng là ngày mở BÁT MÔN ĐỒ TRẬN. Chữ ĐỒ có nghĩa là "sát". BÁT MÔN ĐỒ TRẬN hay chính xác hơn là BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN TRẬN là trận pháp huyền vi lọc sàng những kẻ dầu có trãi ngàn năm tu luyện mà nay vẫn thiếu ĐỨC ĐỘ, những kẻ tham đắm sa đọa danh sắc lợi quyền, vọng động háo thắng ham tranh ham chiến khuấy loàn thiên hạ, theo bàng môn tả đạo kéo bè kết đảng xúi dại nhân sanh làm quấy, dùng tà linh thuật pháp mê hoặc chúng nhân làm điều bất thiện, tiếm danh Tiên Phật xưng thần xưng thánh giả mạo cơ thiên lợi dụng nhân tâm làm điều phi pháp, khoác áo tôn giáo mượn đạo tạo đời làm hư Cửa Thánh, ỷ tài kiêu ngạo coi thường THIÊN LUẬT biếm nhạo THIÊN ĐÌNH chẳng kiêng oai THIÊN TÒA TAM GIÁO... sẽ không thoát khỏi tai kiếp. Còn ác ma quỷ quái lộng hành phá hoại trật tự tam giới thì không cần phải nói. LINH TIÊU là điện Linh Tiêu, chánh điện của Ngọc Hư Cung. Nơi ấy có bệ ngọc tối cao tối thượng, là ngai của khối ánh sáng Đại Linh Quang, gọi là Thái Cực. Bệ ngọc ấy chính là Bạch Ngọc Đài hay Cao Đài. Chưởng quản nơi tối cao tối trọng này chính là Đức Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng. Đức Ngài còn được biết đến với các tôn danh khác như là Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa Thiên, Đấng Chân Chủ, Thiên Chúa, Đức Chúa Trời... LINH TIÊU ĐIỆN là tòa tháp có hình dáng lăng trụ bát giác đều 9 tầng tượng nên hình Bát Quái Cửu Cung, là nơi: (1) chư Thánh Linh, chư Thiên Tôn bái kiến Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế; (2) hội họp định kỳ để đưa ra Thiên Luật được thiết lập nhằm gìn giữ trật tự Tam Giới vận hành theo khuôn mẫu công bình, liêm chính, bác ái, đại đồng; (3) có các giảng đường dạy về luật lệ vận hành trong Tam Giới cho chư Thánh mới vào Thượng Giới tham dự; (4) tuyên đọc các sắc phong cho những anh linh đạt quả vị trong Cửu Phẩm Thần Tiên. (Giải thích dựa theo tư liệu của Cao Đài, trong Tam Giới Toàn Thư, và của GHTT). [Chú giải của người soạn.]
"CƠN MƯA LỚN CHIẾN TRANH ĐỒ THÁN [chiến tranh đồ thán cơn mưa lớn]
THỊNH VƯỢNG KIA KHÔNG CÁNH MÀ BAY [không cánh mà bay thịnh vượng kia]
NÔ DÂN NẶNG GÁNH TIỀN TÀI [nặng gánh tiền tài khác nào nô lệ]
CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA KHỔ DÀI NHIỀU NĂM. [của thiên trả địa khổ đầm đìa]
CÁC LINH CĂN ĐIỂM PHẦN TRỜI ĐẤT [các linh căn được trời đất điểm phần]
CÙNG THIÊN TRƯỜNG LƯỢM DẮT QUẦN SANH [cùng Trường Thiên gom dắt quần sanh]
MẸ CHO XUỐNG THẾ THỰC HÀNH [Hoàng Mẫu cho xuống thế là để thực hành sứ mạng]
HÔM NAY NHỚ LẠI NGỌN NHÀNH GỐC XƯA. [hãy nhớ lại ngọn ngành gốc xưa ngay]
ĐỂ KHẾ HIỆP CHO VỪA ĐỜI ĐẠO [để khế hợp đời đạo cho vừa vai]
THÌ MẪU HOÀNG THÔNG KHẢO NGỌC CUNG [Ngọc Cung thông khảo thì Hoàng Mẫu]
CHUYỂN LÊN BÁT QUÁI CỬU TRÙNG [chuyển tên lên Bát Quái Cửu Trùng đài]
NGỌC HOÀNG KHAI MỞ BỘ ĐẦU NGUYÊN NHÂN. [để Ngọc Hoàng khai mở bộ đầu ngay]
RỒI ĐI ĐẾN TÂN DÂN THƯỢNG ĐỨC [rồi tân dân thượng đức đi đến]
GẶP THIÊN TRƯỜNG HỘI PHẬT THIÊN NHÂN [Thiên Trường gặp Đức Phật Thiên nhân thân]
ĐỘ CHO SANH CHÚNG TỪNG PHẦN [độ cho sanh chúng từng phần]
THOÁT MÊ TRẦN THẾ ĐƯỢC GẦN MẸ CHA." [thoát mê trần thế được gần Mẹ Cha]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
CÁC LINH CĂN ĐIỂM PHẦN TRỜI ĐẤT là Các Linh Căn được Trời (Cha) Đất (Mẹ) điểm phần giao sứ mạng. CÙNG THIÊN TRƯỜNG LƯỢM DẮT QUẦN SANH là phải qui về nơi Giáo Hội Thiên Trường để thực hiện sứ mạng dẫn dắt quần sanh. PHẬT là nói Đức Ngài THIÊN PHẬT (ngoài Phật trong Trời) trong xác phàm. THIÊN NHÂN là nói tất cả chư Thiên Long và Thiên Hoa, là những đại linh căn xuống thế làm phận sự đã được ủy thác trước khi xuống thế. Khi tất cả tụ hội lại một nơi chính là lúc khai Long Hoa Đại Hội, tức là khai hội Tân Dân Thượng Đức. Đến lúc khai hội thì nhớ tìm đến Thiên Trường (Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên - Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba) để hội ngộ với Đức Ngài Thiên Phật và các Thiên Nhân (gặp Thiên Trường hội Phật, Thiên Nhân). [Chú giải của người soạn.]
"VIỆC CAO CẢ TA BÀ Y LỊNH [việc cao cả Ta Bà y lịnh]
HÀNG LINH CĂN GIẢI BỊNH BÓNG ĐỒNG [hàng linh căn phải giải bịnh mê bóng đồng]
VÀO THIÊN TRƯỜNG ĐẠO, TÂM KHÔNG! [vào Thiên Trường Đạo với cái tâm không]
NHẬN CHƠN LINH ĐIỂN HUỲNH HỒNG RỒI TU. [nhận chơn linh điển Huỳnh Hồng rồi tu]
THÌ GIẢI THOÁT AO TÙ TRẦN BẾ [thì sẽ thoát khỏi ao tù trần thế]
GIÁC NGỘ LIỀN CHUYỂN THỂ PHÁP TÂM [pháp tâm thể chuyển giác ngộ liền]
SỐNG ĐỜI ĐẠO CẢNH THẬM THÂM [rồi sống cảnh đời đạo thậm thâm]
ĐƯƠNG LAI DI LẠC DƯƠNG ÂM THIÊN BÌNH." [bóng hình Di Lạc hiện đương Thiên Bình]
(Trích dẩn sấm ký Ngọc Hoàng Thượng Đế Tỏa Kim Quang, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
TRẦN BẾ là trần gian không lối thoát. ĐƯƠNG LAI thường được dịch là tương lai, nhưng ở đây khẳng định là hiện tại (đương là đang, lai là đến, đến và đang chính là hiện tại). ĐƯƠNG LAI DI LẠC DƯƠNG ÂM là Di Lạc hiện nay đang có mặt, bằng xác thể trong đời (dương, hình) và linh thể trong vô vi (âm, bóng). THIÊN BÌNH gồm 3 nghĩa (1) Những lời này là của Thượng Đế xuống điển bình giải; (2) Ngài Di Lạc đang cầm Cân Thiên Bình (cân đo thiện ác, công tội) của Thượng Đế; (3) là nói Thiên Bình Tân Quốc, thiên danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. [Chú giải của người soạn.]
7. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, THÁNH CHÚA THUYẾT GIÁO
Như đã từng giải trình qua và sẽ tiếp tục giải trình thêm, sấm ký khải lộ Phật Vương Di Lạc chính là Huyền Thiên Thượng Đế, cũng chính là Thiên Chúa Ngôi Hai Jesus, cũng chính là Thích Ca Mâu Ni Phật Tổ, cũng chính là Bửu Sơn Kỳ Hương Phật Tổ. Danh xưng khác nhau tùy theo văn hóa vùng miền và giảng truyền giáo lý khác nhau tùy theo nhu cầu và căn cơ chúng sanh, đã đang và sẽ tương tục như vậy ở mỗi thời không từ vô lượng kiếp quá khứ cho tới vô lượng kiếp tương lai. Nhân thân của các ngài theo góc nhìn lịch sử thì có khác nhau nhưng linh quang xuống thế theo góc nhìn đạo sử vô vi thì chỉ có một khối năng lượng đó hóa thân. Và lần này hiện thân với danh xưng Phật Vương Di Lạc, Đức Ngài sẽ tiếp tục dẫn dắt quần sanh trong suốt bảy trăm ngàn năm tới để dựng một "Niết Bàn tại thế" ngay trên quả địa này. Những đoạn sấm ký theo sau sẽ cho thấy rõ hơn nhiều điều về Di Lạc Phật Vương mà nhân gian vẫn mù mờ và hiểu rõ hơn về nền tảng giáo lý mà Đức Ngài đã từng hoằng truyền trong các đời quá khứ và đang hoằng truyền trong đời hiện tại. Thiên Thượng đang vẹt màn the để làm rõ nhiều vấn đề hầu giúp cho nhân loại kịp lúc quay đầu lìa xa con đường dẫn tới tự hủy. Thế gian đã đến thời điểm phải đối diện với sự "sàng lọc khốc liệt" để thực hiện cơ hiệp nhứt và xây dựng thế giới đại đồng. [Chú giải của người soạn.]
7.1
"MƯỜI PHƯƠNG ÁNH SÁNG TRANG NGHIÊM CÕI [cõi trangnghiêm ánhsáng chiếu 10]
XUẤT GIÁNG VIỄN DU HOA TẠNG [phương, từ thế giới Hoa Tạng xuất giáng viễn du,]
THẬP CỔ GIAI KỲ PHÁP THÂN CƯ ĐỘ." [lâu xa rồi pháp thân lui tới cư độ thế gian]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HOA TẠNG là thế giới LIÊN HOA TẠNG (Padma Garbha Loka dhatu) còn gọi là LIÊN HOA QUỐC hoặc HOA TẠNG TRANG NGHIÊM THẾ GIỚI HẢI hoặc HOA TẠNG TRANG NGHIÊM CỤ THẾ GIỚI HẢI hoặc DIỆU HOA BỐ ĐỊA THAI TẠNG TRANG NGHIÊM THẾ GIỚI hoặc LIÊN HOA ĐÀI TẠNG THẾ GIỚI HẢI hoặc THẬP LIÊN HOA TẠNG THẾ GIỚI hoặc THẬP HOA TẠNG, là nơi cư trú của Thanh Tịnh Pháp Thân Phật Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là ánh sáng rực rỡ trang nghiêm chiếu khắp 10 phương. Câu mở đầu của đoạn sấm ký nói "10 phương ánh sáng trang nghiêm cõi" chính là nói cõi Tỳ Lô Giá Na. Căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm, THẾ GIỚI CHƯ PHẬT LÀ NHẤT CHÂN THẾ GIỚI. Trong Nhất Chân Thế Giới có vô số biển nước thơm. Có một biển nước thơm tên Phổ Quang Ma Ni trang nghiêm. Trên biển nước thơm Phổ Quang Ma Ni trang nghiêm có một hoa sen lớn tên Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Trảng được tạo thành từ vô số thế giới nhỏ. Thế giới HOA TẠNG của Tỳ Lô Giá Na Phật nằm ở trung tâm trong bông sen lớn đó. Phật Tỳ Lô Giá Na đã trải qua hằng hà sa số kiếp tu hành chứng được Vô Thượng Bồ Đề. Muôn vạn hoá thân của Tỳ Lô Giá Na Phật có mặt đồng thời trong vô số thế giới để thuyết pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng chỉ là một hoá thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, đang thực hiện việc giáo hoá chúng sanh ở thế giới Ta Bà. Chiếu theo kinh Phạm Võng và kinh Hoa Nghiêm thì thế giới Ta Bà và thế giới Cực Lạc nằm trong thế giới LIÊN HOA TẠNG. Với kinh Hoa Nghiêm thì thế giới Hoa Tạng là thế giới của Tỳ Lô Giá Na Phật. [Chú giải của người soạn.]
"PHÁP MẦU NHIỆM BI TRẦN THÂN CHÍ [thân trần chí nhiệm rãi pháp mầu từ bi]
ĐẠO VÔ BIÊN PHÁP GIỚI TỘT Y [vô biên tột pháp đạo, thế giới ráng hành y, nguyện]
TÂY PHƯƠNG AN LẠC QUY MẠNG NGUYỆN [quy mạng Tây Phương được thường an,]
ĐẠI LỰC TỪ BI PHẬT ÂN DI. [tạ ơn đại lực từ bi Phật Lạc Di]
NHỨT NHỨT MINH QUANG THIÊN XUẤT NHẬP [nhứtnhứt quangminh ThiênTôn xuấtnhập]
SẮC DANH DANH SẮC TÔN DI THẬP [sắc danh danh sắc Thiên Tôn Di Lạc Thầy Nhơn Thập]
TUYÊN THUYẾT BIẾN HƯ HÓA XUẤT QUANG [hư không biến hóa xuất quang tuyên thuyết]
THIÊN NHẬP THỂ PHỤC VÔ THƯỢNG LẬP...[Trời đương trở lại, nhập thể vô thượng lập]
TỎA THÂN HIỆN KỲ BA HÓA HIỆN [thân tỏa ánh hào Kỳ Ba hóa hiện]
BẤT ĐỘNG TRÌ THÂN PHÁP BẢO LIÊN [pháp thân bất động trì, bảo liên Phật đảnh phóng]
VÔ PHÁP ĐẠO PHẬT ÂN ĐẢNH PHÓNG [vô thượng pháp đạo thị hiện]
THỊ HIỆN HƯ KHÔNG BẬC CAO HUYỀN…[bậc vô thượng hư không cao tột Huyền Thiên]
BỒ ĐỀ THẾ TÔN [xưa ngồi dưới cội bồ đề từng được thế gian tôn Thích Giác]
HIỆN KHÔNG KHÔNG HIỆN [nay hiện thân mà như không, không mà như hiện]
ĐẶNG KHIẾT PHÁP TƯỞNG [đặng khiết pháp thanh tịnh]
NƯỚC PHƯƠNG CÕI PHẬT [tưởng cõi nước Phật khắp 10 phương]
TÔN BẬC KHÓ THẤY [bậc cao quý khó thấy]
NAY THẤY MỘT LẦN [nay được thấy một lần]
MƯA PHÁP ĐẦY ĐỦ…[rưới mưa pháp đầy đủ]
TA ĐỘ CHÚNG SANH [Ta độ cho chúng sanh]
TU HÀNH PHẬT ĐẠO [tu hành theo lối Phật]
TA TẠO HÓA RA [Ta tạo lập hóa ra]
KỲ BA DỊ ĐẠO [Đạo Kỳ Ba phi thường]
THÔNG THẠO PHẬT THỪA [Ta thông thạo Phật thừa]
TỪ XƯA TỪNG CÓ [từ xưa đã từng có]
PHẬT ĐÓ VÔ THƯỢNG [vị Phật đó vô thượng]
BA PHƯƠNG BỐN CÕI [bốn phương cùng ba cõi]
THỜI NÓI PHÁP NGHE [thời thời thuyết pháp cho nghe]
BỒ ĐỀ PHẬT ĐẠO…[Phật Đạo bồ đề]
NGƯỜI NGHE PHÁP ĐẦY ĐỦ TA HIỆN [Ta hiện thân, pháp mọi phương diện cho người nghe]
TRỤ PHƯƠNG DIỆN NGƯỜI NGHE ĐƯỢC DUYÊN [trụ nơi pháp Ta người nghe được duyên]
TA NGỰ TẦN SỐ CAO THANH TỊNH [Ta ngự nơi tầng số cao thanh tịnh]
NGHÌN ỨC THỰC DIỄN NGHĨA PHÁP THIỀN [pháp thiền thực nghĩa diễn ngàn ức thế giới]
VÔ LƯỢNG KIẾP NAY TA CHỈ GIÁO [Ta chỉ giáo từ vô lượng kiếp nay]
BA MINH BỐN TRÍ TRÌ PHÁP BẢO [trì pháp bảo của Ta dạy có đủ ba minh bốn trí]
NÓI PHÁP NGHE PHÁP THÂN THANH TỊNH [nói pháp nghe pháp thân thanh tịnh]
PHÁP MINH HIỆN TỊNH BÁU CỘT VÀO... [minh tịnh pháp bảo hiện. Cột vào!]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
BA MINH là (1) Thiên Nhãn Minh; (2) Túc Mạng Minh; (3) Lậu Tận Minh. Là trí tuệ của bậc chứng Thánh “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui” (trích Trung Bộ Kinh). BỐN TRÍ là Thành Sở Tác Trí, Diệu Quan Sát Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Đại Viên Cảnh Trí. THÀNH SỞ TÁC TRÍ chuyển hóa Tiền Ngũ Thức (5 thức căn bản hoạt động liền với 5 căn) mà thành (không còn sanh tâm phân biệt, điên đảo, động loạn, ưa thích; thấy nghe sánh suốt, hỷ lạc khinh an hiện tiền; thức thuộc hữu vi còn Thành Sở Tác Trí thuộc vô vi nên nó còn có tên là VÔ VI TRÍ). DIỆU QUAN SÁT TRÍ chuyển hóa thức thứ 6 là Ý Thức (công năng nghĩ suy, phân biệt, thị phi, quyết đoán) mà thành. BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ chuyển hóa thức thứ bảy Mạt Na (Ngã Thức) mà thành (ngã chấp, đấu tranh, hơn thua, được mất... đều tịch diệt; hai tướng nhân ngã không còn, từ bi sinh khởi; khổ vui không hiện khởi trong tâm, thọ uẩn tịch diệt, thọ uẩn tịch diệt trung tế tịch diệt, hậu tế tịch diệt, hữu thân tịch diệt, hậu hữu thân tịch diệt, sanh lão tử chấm dứt.). ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ chuyển hóa thức thứ tám A Lại Da (kho chứa dữ liệu) mà thành (còn có tên VÔ SỞ HỮU TRÍ, như tấm gương không chối vật mà cũng không lưu dấu hình; sở hữu là thức, vô sở hữu là trí; thức uẩn và hành uẩn tịch diệt, tánh giác hiện ra, soi thấu vạn hữu, thành tựu đại công đức). Tuy nói 8 thức nhưng thực ra chỉ có một thức đảm trách 8 chức năng khác nhau. Từ Đạo (người soạn sách này) gọi một thức này là Thể Trí của con người.
"SỐ VI TRẦN KIẾP SỐ TRƯỞNG TỬ [nhiều như số vi trần kiếp]
TA NAY THẢY ĐỀU LẦN NHẬP ĐỦ [trưởng tử của ta nay thảy đều lần lượt nhập đủ]
DIỆU PHÁP TA ĐỀU HIỆN Ở ĐÂY [diệu pháp của Ta, tất cả đều hiện diện ở đây ]
MỘT LỜI HOA PHÁP BẬC ĐẠO TỪ. [để lắng nghe lời Pháp Hoa của một bậc Đạo Từ]
NGÔN RẰNG TRỤ PHẬT NHỨT TRÍ HUỆ [lời rằng trụ nơi Phật được trí huệ bậc nhứt]
DANH RẠNG BÁU TRỜI TRỤ ĐẠO PHÊ [trụ nơi Đạo Trời được danh phê rạng báu châu]
THIÊN TRẢI BÍCH NÀY NÓI PHÁP NGHE [nghe nói pháp này chư thiên mừng rải ngọc báu]
QUỐC ĐẠO AI GẦN ĐẶNG PHẬT VỀ… [Phật Quốc ai gần sẽ đặng đạo giải thoát]
[Khoán: Danh Ngôn Thiên Quốc. Phật Trời (Thiên Phật) Này Gần. Trí Đạo Pháp Phật.]
VÌ NGHE TA NÓI MÀ CUNG KÍNH [vì nghe Ta thuyết mà cung kỉnh]
CẦU PHÁP TA HOẰNG ĐƯỢC ĐẾN BỜ [cầu pháp Ta hoằng đến được bờ]
ĐIỂN TRỤ NÓI PHÁP BẤT THỐI CHUYỂN [hóa thân trụ điển nói pháp bất thối chuyển]
BỐN MƯƠI TÁM BÁU HÀNG TRỜI THIÊN [48 báu hàng trời thiên và tất cả]
THIỆN NAM TÍN NỮ NGHE DIỆU PHÁP [thiện nam tín nữ nghe diệu pháp Ta thuyết]
HOA SEN SANH HÓA BƯỚC LÊN LIỀN." [hoa sen liền sanh, lúc hóa bước lên liền]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN QUỐC từ bốn chữ THIÊN BÌNH TÂN QUỐC, là thiên danh của Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. THIÊN BÌNH là cây cân thiên bình, một pháp khí tiêu biểu của Ngọc Đế, đấng phán xét công tội của vạn linh. TÂN QUỐC là Đạo Quốc của Tân Dân. 48 BÁU là nói 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong cuốn Kinh Bi Hoa (Đại Bi Liên Hoa) ngoài việc nói đến nhân duyên tiền thân của Đức Phật A Di Đà cùng với rất nhiều vị Phật và Bồ Tát khác, phần lớn nội dung kinh giảng về Pháp Bố Thí trong tinh thần Đại Thừa như là một phương tiện để hiển bày tâm đại bi của Bồ Tát.
"SA DI ĐÀ RA TẤT NA ĐA
CHIÊN ĐÀ LA HA TA ĐÁT ĐA
BA LA MẬT ĐA BÁT ĐẲNG MẾ
NHẬP PHẠ RA NHẬP PHẠ RA ĐA
TA NA CHI TẠ XI TA NA
TRÙ TUNG TA ĐÀN BẾ DIẾC TA ĐÀ.
HÃY ĐẢNH LỄ CHÁNH PHÁP NGÀY NAY [chánh pháp của Ta ngày nay, hãy đảnh lễ]
ĐOẠN TẬN DIỆT KHÔNG TẠO ÁC LAI [đoạn, diệt tận, không tạo thêm nghiệp ác nữa]
CHƠN HẠNH PHÚC MỌI LOÀI HẠNH PHÚC [chơn hạnh phúc là khi mọi loài được hạnh phúc]
ĐẢNH LỄ PHẬT NƠI ĐÂY OAI LỰC [hãy đảnh lễ Phật nơi đây, bậc oai lực]
GIỮA HƯ KHÔNG ĐẠI BỰC THẾ TÔN [giữa hư không Đức Ngài đáng bực Đại Thế Tôn]
THÂN KIẾN PHẬT KHÉO Y TỰA LÒNG... [thấy được thân Phật hãy khéo y tựa lòng]
HƯƠNG MẦU BAY KHẮP MƯỜI PHƯƠNG [kỳ hương bay khắp mười phương cõi]
LỄ NGHI [HÃY] BÀY THỈNH PHẬT VƯƠNG ĐẠI ĐỒNG [lễ nghi bày thỉnh Phật đại đồng]
TRẦN HỒNG TIẾN TỚI ĐẤT KHÔNG [trần hồng cõi tục hóa tịnh không]
KHÔNG ĐƯỜNG VỀ, CÕI TÂY ĐÔNG RÕ TƯỜNG. [là đường về, cõi Tây Đông hãy rõ tường]
HƯƠNG HOA BÁU NGỌC TÂY PHƯƠNG [hương sen báu ngọc Kỳ Hoa tại]
HƯ KHÔNG HÒA ĐIỆU SẼ TƯỜNG NAY MAI [hòa điệu hư không rõ nay mai]
NỬA VẦNG TRĂNG SÁNG NGUYỆT KHAI [trăng vàng nửa lộ sáng khai]
PHỤNG RỒNG TÁ TRỢ NAY MAI TRỔ HÌNH [phụng long phò tá nay mai trọn hình]
TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ ĐĂNG TRÌNH [Giáo Chủ lên đường về cõi Phương Tây]
ANH TÀI MINH TRIẾT TRUNG TRINH VẪY VÙNG [anh tài minh triết trung trinh vùng vẫy]
ĐANG HỒI XỬ TRỊ TRẦN LUNG [trần lung đang hồi trị xử răn đe]
HỮU VÔ VÔ HỮU TUYỆT CÙNG LẮNG NGHE!" [tận ý hữu vô vô hữu lắng nghe]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
TÂY PHƯƠNG là nói toàn thể Tây Bán Cầu nhưng đặc biệt ám chỉ Hoa Kỳ. NỬA VẦNG TRĂNG đồng nghĩa với chữ BÁN NGUYỆT và có nghĩa là giữa tháng hay ngày rằm. NGUYỆT là hình ảnh biểu thị vòng hào quang tỏa ra chung quanh đầu của các đấng giác ngộ, các bậc thánh trí. NỮA VẦNG TRĂNG SÁNG NGUYỆT KHAI, PHỤNG RỒNG TÁ TRỢ NAY MAI TRỔ HÌNH là ý nói đấng giác ngộ, đấng thánh trí xuống thế vào một đêm trăng sáng và nay mai Đức Ngài sẽ trổ hình, được phụng rồng tá trợ. [Chú giải của người soạn.]
Với các từ "đăng trình" hay "minh triết" hay "trung trinh" hay "vẫy vùng" trong hai câu TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ ĐĂNG TRÌNH, ANH TÀI MINH TRIẾT TRUNG TRINH VẪY VÙNG thì rõ ràng là nội dung sấm ký này đang khải lộ những điều về một nhân thân bằng xương bằng thịt dưới thế gian. Người này là ai? Thưa nhân thân này chính là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Đức Ngài từ Phương Đông (VN) đến nên mới nói "đăng trình". Đức Ngài là Giáo Tông của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba khai mở và đang có mặt giáo đạo tại Phương Tây (Hoa Kỳ) nên mới nói là "Tây Phương Giáo Chủ". HỮU VÔ VÔ HỮU TUYỆT CÙNG LẮNG NGHE là ý nói cái hữu vi liền đi với cái vô vi và cái vô vi đi liền với cái hữu vi, "ai có tai thì hãy dùng tai để mà nghe" và nghe cho thật rõ (mượn lời Kinh Thánh Cơ Đốc), cho nên thấy nhân thân hữu hình thì cũng phải thấy linh thể vô hình ẩn dạng, nói huyền năng của linh thể xuống thế cũng là nói xác thể hữu hình tại thế. [Chú giải của người soạn.]
"HIỆN TA TA HIỆN ĐỘ BÁ TRẦN [hiện nay Ta đang hiện thân tại trần độ chúng nhân]
NGƯỜI MAU GIÁC NGỘ CỨU LẤY THÂN [người mau giác ngộ để cứu lấy bản thân]
DANH TA CẦU MUỐN MAU TU ĐẠO [muốn mau tu đạo hãy cầu danh ta Di Lạc]
CHÍ ĐẠI TỪ BI ÁNH ĐẠO VÀNG. [chí đại từ bi sẽ chiếu ánh đạo vàng]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Trong Kinh Bi Hoa có đoạn "Phật bảo Đại Bồ Tát Di Lặc: … Di Lặc! Ở nơi quá khứ trong mười đại kiếp, nếu có người nào muốn nguyện thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay khi đó, ông liền đáp ứng đầy đủ, làm cho họ nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vào Vô Dư Niết Bàn. Di Lặc! Ông ở lâu nơi sanh tử do bổn nguyện. Sở dĩ không thành Phật là do chưa đúng lúc. Di Lặc! Vì ông, nay Ta trao chức vị Phật." CẦU DANH: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có ghi một tiền kiếp của bồ tát Di Lạc hiệu là Cầu Danh.
Nhưng Di Lạc Phật Vương được nói tới trong sấm ký này không phải là Bồ Tát Di Lặc nói tới trong kinh Bi Hoa mà là Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế hóa thân xuống thế "hiện thân Di Lạc trần gian, Phật Vương là hiệu Minh Hoàng là danh". Trong ba câu đầu tiên của sấm ký 6.1 Phật Vương đã tự giới thiệu mình đến từ thế giới Hoa Tạng, đã xuất giáng viễn du cư độ thế gian, đã dạy đạo từ vô lượng kiếp xưa, đã có vô số vi trần trưởng tử nay đã lần lượt nhập đủ 10 hiệu. Như vậy thì rõ ràng là Di Lạc Phật Vương nói đến trong sấm ký 6.1 này không phải là Bồ Tát Di Lạc của kinh Bi Hoa nói. Và thế giới Hoa Tạng của Đức Ngài, như đã nói "Ta ngự tầng số cao thanh tịnh" và nơi đó "10 phương ánh sáng trang nghiêm cõi", là "chốn trời cao thẩm Thiên Đường Sáng" (trong đoạn sấm ký 6.10). Phải chăng thế giới Hoa Tạng và Tỳ Lô Giá Na Phật nói tới trong kinh Hoa Nghiêm chính là một cách mô tả "Thiên Đường Sáng" và Thiên Chúa Cha của Thiên Quốc Cực Lạc theo ngôn ngữ đặc thù Phật Giáo??
Nói tóm lại Di Lạc Phật Vương không phải là Bồ Tát Di Lạc của Phật Giáo nói mà là một đấng Đại Thiên Tôn, là đấng "nhựt nguyệt tinh, thần chi Quân" (Chúa của toàn thể vật chất hữu hình và linh thể vô hình), là đấng "Thánh Thần Tiên Phật chi Chủ" (Chủ của tất cả thánh thần tiên phật) như trong kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo hay Thiên Đế Bửu cáo Cáo (Lời cáo do Đức Quan Thánh Đế Quân và Đức Phù Hựu Đế Quân, cũng là Thuần Dương Lão Tổ Lữ Đồng Tân, xuống điển ban kinh ngày mùng 01 tháng 09 năm Tân Mão nhằm ngày thứ bảy 03/10/1891 tại Thiểm Tây, Trung Quốc vào đời Vua Quang Tự, sau này được ngài Ngọc Lịch Duyệt chọn làm bài kinh tán thán Thượng Đế cho Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ).
Vạch ra sự khác biệt chỉ là để hiểu rõ thêm thực nghĩa của sấm ký và thiên cơ cũng như xác nhận danh xưng của các ngài ở mỗi cơ kỳ giáng đạo để căn cứ theo đó mà hiểu được những điều khải lộ chứ không có mục đích phân biệt với những ý đồ tiêu cực. "Khối ánh sáng" từ "cõi Thiên Đường Sáng" xuất giáng viễn du và hiện thân trong thế gian này dầu dưới danh xưng nào đi nữa, là Thích Ca Mâu Nhi Thế Tôn, hay Di Lạc Vương Phật Thiên Tôn, hay Thánh Chúa Ki Tô Jesus hoặc là Phật Thầy Linh Sơn, hay Phật Thầy Bửu Sơn, hay Thầy Nhân Thập, hay Phật Thiên... thì cũng chỉ là "hóa thân" của "khối ánh sáng" xuống thế trần tạm mượn "sắc danh" để dẫn dắt chúng sanh. Chúng ta có thể "sờ được" hóa thân nhưng không thể "chạm được ánh sáng" của các ngài vì vượt ngoài khả năng của con người. Các Đức Ngài nói vậy thì phàm nhân như chúng ta chỉ biết nghe vậy chứ thực sự chẳng có "con người nào", "học giả nào", "nhà nghiên cứu nào", "ông thầy tu nào", "ông đạo sĩ nào" có thể khẳng định những gì được dạy là "sự thật tuyệt đối", tôn giáo của mình "nắm giữ sự thật tuyệt đối", đạo của mình "là con đường duy nhất và tuyệt đối dẫn đến chứng đắc". Nếu cứ giữ chấp niệm cái "tuyệt đối và duy nhất" của mình và phủ nhận tất cả các thứ "không khuôn theo cái tuyệt đối và duy nhất" của mình thì e rằng không vượt ra khỏi cái bóng lẫn khuất của hai chữ cuồng tín. [Chú giải của người soạn.]
7.2
"ĐỜI DỮ ĐẠO PHÁP THÂN KHINH TỊNH [Đời và Đạo pháp thân nhẹ sạch]
LÒNG TỪ BI PHỦ KÍN NHÂN GIAN [lòng Bi Từ phủ kín nhân gian]
CHUNG HÒA ĐẠO HẠNH CHỈNH TRANG [chung hòa đạo hạnh chỉnh trang]
CẦU ĐẠO CHÁNH PHÁP VẠN BANG HẾT SẦU [cầu đạo chánh pháp thế gian hết sầu]
LÔ KIỀM ĐÃN ĐA MẠC BỆ RA
LIỄM LIỄM ĐA HẮC TẤT ĐA HA
ĐÀ RA HA LÃO ĐÀ ĐA XÁ
ĐÁP LỆ DƯỢC CA TỲ XA ĐA
KHÔNG KHÔNG ẢNH HIỆN TỌA KHÔNG ẢNH [ảnh hiện không không ảnh tọa không]
CAO CAO THINH THIÊN TRỤ HOÀNG ÂN [lời chốn cao cao Thiên Hoàng hồng]
NGÕA NGÕA THUẬT ĐẾ BẤT ĐẠT DẠ
TAM MẠN ĐÀ DA TẤT ĐẾ HA
NA GIÁ LỊ HA DÀ ĐẾ ĐẠT
ĐẾ ĐẾ KỲ YẾT TRỤ ƯU ĐÀ.
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, đàn giờ Mão ngày 7 tháng 9 năm Mậu Tuất (27/10/2018) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)



