1. SẤM KÝ TIỀN ĐỒ VINH DIỆU CỦA DÂN TỘC VÀ ĐẤT NƯỚC
Trích dẫn Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I.44, Cao Đài, xb 1972, đàn cơ ngày 15 tháng 9 năm Bính Dần (24/10/1926) tại nhà ông Hồ Quang Châu và bà Phan Thị Lân, Đấng Chí Tôn đã huyền khải như sau:
THẦY HIỆP CÁC CON LẠI MỘT NHÀ
NAM BẮC CÙNG RỒI RA NGOẠI QUỐC
CHỦ QUYỀN CHƠN ĐẠO MỘT MÌNH TA .
MỘT NƯỚC NHỎ NHOI TRONG VẠN QUỐC
NGÀY SAU LÀM CHỦ MỚI LÀ KỲ."
Đoạn sấm ký trên cho thấy TẤT CẢ ĐỀU DO Ý TRỜI; TẤT CẢ ĐỀU NẰM TRONG SỰ SẮP ĐẶT CỦA THƯỢNG ĐẾ; TẤT CẢ ĐỀU DIỄN TIẾN THEO SỰ VẬN HÀNH CỦA BỘ MÁY THIÊN CƠ. Người dân Việt, toàn thể, trong quốc nội lẫn hải ngoại, phải biết rõ sấm thi này để có thể tìm thấy sự yên bình trong trái tim, để thắp sáng đức tin và chờ đợi một tiền đồ sáng lạng của dân tộc và của nhân loại, để đón chào một kỷ nguyên mới YÊU THƯƠNG ĐẠI ĐỒNG. Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn. [Chú giải của người soạn].
2. SẤM KÝ LẬP TRÌNH THIÊN KHAI NHỨT MẠCH CỦA ĐỨC CHÍ TÔN
Trích dẫn Chương Trình Long Hoa Đại Hội, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 8 năm Canh Tý (8/10/1960), Ngũ Phụng Kỳ Sơn, Thiên Khai Huỳnh Đạo. Đấng Chí Tôn đã huyền khải:
TIỀN KHAI ĐẠO THẦY TRỜI CHUYỂN HÓA
PHÂN TAM GIANG DANH TÁ CAO ĐÀI
CÀN KHÔN CHÚA TỂ LINH OAI
ĐỘ ĐOÀN CON DẠI TRẦN AI KHỔ SẦU.
[Khoán: Tiền Khai Đạo, Phân Tam Giang.]
Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ được phân theo ba giang là Cao Đài Tiền Giang, Cao Đài Trung Giang và Cao Đài Hậu Giang, gọi chung là TAM GIANG. Lúc mới bắt đầu giáng đạo Đức Chí Tôn TÁ DANH CAO ĐÀI, về sau mới biết Cao Đài Tiên Ông chính là CÀN KHÔN CHÚA TỂ LINH OAI, là Huyền Khung Cao Thượng Đế, tôn danh được xưng tụng theo cuốn kinh Ngọc Hoàng Đảo Cáo xuất xứ từ các đạo Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường. Sau này, vào ngày Vía Ngọc Hoàng năm 2020, đàn giờ Ngọ, ngày mùng 9 âm lịch đầu năm Canh Tý (2/2/2020), tại thánh đàn Nam Thành của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn, Đức Chí Tôn đã giáng điển khải lộ cho biết Đức Chí Tôn chính là Đấng Tạo Hoá Thiên với danh xưng là Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. Truy cập tư liệu tại: https://onglaidoky3.com/p312a465/ngoc-kinh-long-hoa-mo-hoi-khai-quoc-dao). [Chú giải của người soạn].
TIỀN KHAI ĐẠO THẦY TRỜI CHUYỂN HÓA là nói về giai đoạn "tiền khai đạo" của chương trình "lập đời Tân Dân" mà Đức Chí Tôn đã chưởng quyết. Trong giai đoạn đầu tiên này Cao Đài Tiên Ông "chỉ giáng đạo chứ chưa khai giáo" để "độ dân Việt hữu phước mà thiểu căn" vào thời điểm đó, thời điểm đầu thập niên 1920s, là thời kỳ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ ra đời hoằng hóa dân chúng trên đất nước Việt Nam. Cao Đài Tiên Ông khải lộ: "Thầy tá danh CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ, Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Chính thiệt là KỲ NÀY LẬP ĐỜI chớ KHÔNG CÓ PHỔ ĐỘ. Phổ độ đây là phần riêng của Thầy độ các con đó thôi.... Đó là kế hoạch của Thầy triệu những kẻ căn Đời vào Đạo đó thôi. Còn thiệt [Đạo Huỳnh, Giáo] của Thầy là KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI." (Trích dẫn Tam Nhật Đàn, trang 19, Bát Quái Đồ Thiên, Cao Đài Đại Đạo, 1935). [Chú giải của người soạn.]
Nhiệm vụ chính của CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ là gom bá tánh Việt "hiệp nhập Cao Đài" để họ lo bồi công lập đức, trích dẫn từ 2 câu liểng tại Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh đã huyền khải từ nhiều năm trước về hai sứ mạng khác nhau của hai thời kỳ trong một mạch ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG (HUYỀN KHUNG): [Chú giải của người soạn.]
"HIỆP NHẬP CAO ĐÀI, BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ.
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA."
Câu thứ nhất HIỆP NHẬP CAO ĐÀI, BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ huyền khải thời kỳ "tiền khai đạo" để "phổ độ bá tánh Việt" do CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ chịu trách nhiệm thực hiện. Câu thứ hai THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA huyền khải giai đoạn "hậu khai giáo" do THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA chịu trách nhiệm "tuyển độ anh hùng tuấn kiệt hiền tài" để họ lãnh sứ mạng thực hiện "hiệp ngũ chi tam giáo hội Long Hoa". [Chú giải của người soạn.]
Đấng Chí Tôn cũng đã xác định từ năm 1935 rằng"CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ là hôm nay [tức nói thời kỳ tiền khai đạo]. Cuối Hạ Ngươn đời tận thế là tận diệt loài người năm châu cùng là vũ trụ [sẽ chỉ] còn lại kẻ hữu căn hữu đức đặng Lập Đời trở lại Thượng Ngươn, thì LUẬT TRỜI định GIÁO ĐẠO HUỲNH XUỐNG THẾ độ kẻ hữu căn LẬP ĐỜI, KHÔNG CÓ PHỔ ĐỘ." (Trích dẫn Tam Nhật Đàn, trang 16) Và, "thiệt của Thầy là KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI," tức là nói chính Thầy sẽ xuống thế khai mở tôn giáo trong tương lai. (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 19.) [Chú giải của người soạn.]
Với các huyền khải trên thì đã rõ THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA mới đích thực là "Tôn Giáo" do chính Giáo Tôn Thượng Đế xuống thế khai mở, tức là giai đoạn CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ, đúng vào giao điểm "cuối hạ ngươn đầu thượng ngươn", thời kỳ mà nhân loại sẽ phải chứng kiến những biến động kinh hồn (Trích dẫn Thượng Đế Giảng Chân Lý, xb 11/2006 tại VN; Trích dẫn Tam Nhật Đàn, đàn cơ ngày 15 tháng Giêng năm Ất Hợi 1935, Bát Quái Đồ Thiên Hà Tiên, Cao Đài Đại Đạo). Truy cập tư liệu tại: https://onglaidoky3.com/p322a344/thuong-de-giang-chon-ly ; và https://onglaidoky3.com/p322a338/tam-nhat-dan). [Chú giải của người soạn.]
Giữa hai giai đoạn "tiền khai đạo, hậu khai giáo" của Đức Thượng Đế là giai đoạn Thiên Khai Huỳnh Đạo "nhất thời hoằng khai" (chỉ tạm thời hoằng khai) mở ra vào những năm đầu thập niên 1960s là để Phật Thầy Tây An dọn đường cho tương lai. Đoạn sấm ký bên dưới cho thấy rõ điểm này. [Chú giải của người soạn.]
"RẰM THÁNG SÁU TỴ NIÊN XUẤT THẾ [ngày xuất sấm ký này, 15/6 AL Ất Tỵ 1965]
NƠI HẬU GIANG NGỌC ĐẾ ĐỊNH RỒI [Ngọc Đế định nơi Long Môn tại Tắc Vân, Cà Mau]
LONG MÔN SẤM KÝ ĐỂ LỜI [ghi lời sấm để lại ngày sau làm chứng cứ]
CHƠN TRUYỀN HUỲNH ĐẠO NHẤT THỜI HOẰNG KHAI [Nay 1962 tạm thời lập TKHĐ]
TIÊN TRI TRƯỚC HẬU LAI SẼ RÕ ... [tương lai sẽ thấy rõ huyền khải này]
CHO TA MƯỢN THẾ CƠ VÀNG [cho Phật Thầy Tây An mượn cơ Huỳnh Đạo]
DẮT DÌU NAM TỬ KHOA TRÀNG DỰ THI..." [để dẫn môn đệ TKHĐ dự khoa tràng]
[Khoán: Sấm Ký Để Lời: Huỳnh Đạo Nhứt Thời Hoằng Khai, Hậu Lai Sẽ Rõ. Ta Mượn Thế Cơ Vàng Dắt Dìu Nam Tử Khoa Tràng Dự Thi.]
(Trích dẫn SẤM GIẢNG HẬU GIANG, đàn cơ ngày 15 tháng 6 năm Ất Tỵ (13/7/1965), Thiên Khai Huỳnh Đạo. Truy cập: https://onglaidoky3.com/p322a33/sam-giang-hau-giang)
Hai câu cuối rõ ràng khẳng định THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO khai mở vào thập niên 1960s (năm 1962) tại Việt Nam cũng là "cơ mượn" để "tạm mở" tôn giáo này "dắt dìu nam tử khoa tràng dự thi". Xin thưa là để "dự thi" chớ không phải để "chấm thi". Còn THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA là cơ vàng của Giáo Tôn HUYỀN THIÊN DI LẠC mở ra để GIÁO dân độ thế buổi ngươn tàn, HỘI Thiên Long Thiên Hoa quy trào nhận nhiệm vụ hộ cơ nguy, mở TRƯỜNG chấm thi tuyển lựa kẻ Đức tài phụng sự Thánh Đức. Công việc "GIÁO, HỘI, TRƯỜNG" này diễn ra song song tại thế gian hữu hình và trong thế giới vô hình, đúng với câu "DI vì thánh lịnh của TRỜI ban, LẠC hội công đồng tại thế gian". (Trích dẫn CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 8 năm Canh Tý (8/10/1960), Ngũ Phụng Kỳ Sơn, Thiên Khai Huỳnh Đạo). [Chú giải của người soạn.]
Tóm lại, về mặt triển hiện các cơ kỳ của ĐẠI ĐẠO theo ý chỉ từ Đài Cao Huyền Không Chí Thượng thì THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA (hậu xuất đầu Thượng Ngươn) chính là cơ kỳ tiếp nối THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO khai mở năm xưa (tiền xuất cuối Hạ Ngươn), và trước đó nữa là tiếp nối CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ khai mở đầu thời kỳ PHỔ ĐỘ, làm thành "Thiên Khai nhứt mạch". Đức Chí Tôn và Cộng Đồng Tam Giáo Thánh Tòa cũng đã định sẵn là "Cao Đài thông truyền, Huỳnh Đạo Thiên Khai tiền ẩn hậu xuất", mà còn là "hậu xuất tại Hoa Kỳ" để thực hiện cơ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO tại trời Tây, chính xác là tại Nam California của Hoa Kỳ, đúng sát với "lập trình" như đoạn sấm ký quen thuộc này của Cao Đài đã huyền khải từ lâu: [Chú giải của người soạn.]
"TIỀN ẨN ĐẠI DANH CAO BẮC KHUYẾT
HẬU XUẤT HOA [KỲ] KHAI ĐÀI THÔNG TRUYỀN
HUỲNH ĐẠO PHỔ DƯƠNG ĐỒNG BÁT QUÁI
THIÊN KHAI NHỨT MẠCH THÁI BÌNH YÊN."
[Khoán: Cao Đài Thông Truyền, Tiền Ẩn Hậu Xuất Thiên Khai Nhứt Mạch.]
(Trích dẫn trong NGUYÊN NHÂN ĐẠI ĐẠO, Đệ Thứ Nhất, Diệu Minh Bảo Pháp Di Lạc Chơn Kinh, đàn cơ cuối năm Quý Hợi 1983, Thiên Lý Bửu Tòa, Thiên Khai Huỳnh Đạo.)
Đến đây xin phép được mở ngoặc giải thích vài "thuật ngữ" được sử dụng trong tập sấm ký này. Thứ nhứt là sự khác biệt giữa hai từ TIÊN TRI và HUYỀN KHẢI. Tiên tri là những sự việc được báo trước với một xác xuất nào đó, tức là chưa chắc sẽ xảy ra. Chính vì tiên tri còn tùy thuộc cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ của Hòa Hảo mới nói "Ta dừng lại chờ đợi Lịnh Thiên, chờ Ngọc Đế phán phân cho thế" sau khi đã đưa ra những lời tiên tri của mình. Còn huyền khải là sự việc nhất định phải xảy ra. Mượn văn đời để nói, tiên tri chỉ mới là kế hoạch dự thảo chưa được "xếp lớn" ký tên đóng dấu còn huyền khải đã là lập trình đã được "xếp lớn" ký tên đóng dấu và chắc chắn cấp dưới phải triển khai. Thứ hai là từ KHOÁN. Khoán là "ký gởi một thông điệp" vào một khổ đạo thi hay sấm ký hay thánh giáo, bên cạnh phần chính văn hiển nhiên. Trong thi pháp xưa, đặc biệt là đạo thi, thường thấy lối khóan thủ (chữ đầu tiên trong mỗi câu và đọc từ trên xuống), khoán yêu (chữ giữa câu) và khoán vĩ (chữ cuối câu). Sau này có rất nhiều cách khoán khác thí dụ như khoán hình chữ L, chữ L úp, chữ U, chữ U ngang hay khoán ma trận và khoán tự do. Những cách khoán mới này được dùng khá nhiều để "mã hóa" những thông điệp và làm cho người đọc bình thường khó nhận ra. Giải mã chính xác là việc của những người "có điển huệ linh chiếu" và "có sứ mệnh giải mã". Chỉ cậy vào học lực và mớ "tri thức thế gian" thì e rằng không được đúng, nếu không muốn nói thường là sai ngàn dậm. [Chú giải của người soạn.]
3. SẤM KÝ THỜI KỲ LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN
Vào ngày Rằm tháng Giêng năm Ất Hợi, ngày Giáp Tí tháng Mậu Dần âm dương lịch tức ngày 17 tháng 2 năm 1935, một mật đàn kéo dài ba ngày đã diễn ra nơi cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên thuộc tỉnh Hà Tiên của miền Nam Việt Nam. Nội dung của Tam Nhật Đàn này chứa đựng những thông điệp vô cùng quan trọng liên quan đến CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ đương thời và CAO ĐÀI VÔ VI KỲ BA TRÀO TAM XUẤT THẾ trong tương lai. Nội dung của mật đàn này đã không được phép công bố trong suốt một thời gian dài gần 3/4 thế kỷ theo chỉ thị của Thượng Đế. [Chú giải của người soạn.]
Trong đàn cơ này, Đấng Chí Tôn đã giáng đàn để "minh chơn lý" và "lập văn tự làm chứng cứ" cho nhơn sanh ngày sau thấy rõ mà tin theo rằng CAO ĐÀI VÔ VI KỲ BA TRÀO TAM XUẤT THẾ hay THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA đã được "lên kế hoạch" và nhất định "sẽ tới" vào một thời điểm đã được "định trước". Cao Đài Tiên Ông đã chỉ thị cho cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên của Đạo Cao Đài rằng họ chỉ được phép phổ biến nội dung của Tam Nhật Đàn này khi đến đúng thời điểm căn dặn. [Chú giải của người soạn.]
Lúc đó, năm 1935, Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ chỉ mới thành hình trên dưới 10 năm. Và thời điểm mà Đức Chí Tôn đã căn dặn "chỉ cho phép phổ biến" nội dung mật đàn khi mà "Trung Đông chiến họa, lưỡng dân điêu tàn" và "đời đạo đều hỗn loạn". Thời điểm được tiên khải ứng vào vào năm 2001 trở về sau và hoàn cảnh được tiên khải chính là từ sau sự kiện 9/11 làm sụp đổ hai tòa cao ốc Trung Tâm Mậu Dịch Quốc Tế tại New York, dẫn đến quyết định Hoa Kỳ xâm lăng Iraq năm 2003, rồi kéo dài hơn hai thập niên "chiến họa" khắp Trung Đông, đưa đến tình trạng "lưỡng dân điêu tàn" của hai khối dân Sunni và Shia trên xứ sở Iraq và khắp Trung Đông vì bị cuốn vào vòng xoáy "đời đạo hỗn loạn". Một huyền khải đã ứng hiện và không thể phản bát! Văn bản Tam Nhật Đàn đánh máy quay roneno có đóng dấu xác nhận nội dung được ghi chép vẫn còn đang lưu trữ tại Bát Quái Đồ Thiên. Truy cập tư liệu tại: https://onglaidoky3.com/p322a338/tam-nhat-dan. [Chú giải của người soạn.]
Lật lại từng trang sấm ký sẽ cho chúng ta một cái nhìn thấu đáo hơn về CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC của Đức Chí Tôn. Tuy nhiên vì giới hạn thời gian và chủ đề cho nên người soạn văn bản này chỉ xin phép được rút ra một số đoạn mà Đức Chí Tôn đã huyền khải những điều quan trọng trong suốt "ba ngày mật đàn" này để làm khung đối chiếu giúp cho chúng ta thấu hiểu một cách chính xác hơn những diễn biến của cơ thiên về sau. [Chú giải của người soạn.]
"Ngày kia, tại xứ VIỆT NAM, Trời lập BÁT MÔN ĐỒ TRẬN có 8 cửa: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Hào quang sáng chói nửa lừng trời thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang, sang phá trận cho tiêu tàn, giành làm bá chủ. Trận Bát Môn của Trời lập, chính là THIÊN MÔN TRẬN người tu một ngàn năm vào trận khó ra. Thiên Môn Trận thâu hồi bá đạo vào Bảng Phong Thần, đó là Phong Thần thăng Bảng Kỳ Ba đó các con! Như vậy thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo sang phá trận đều bị tiêu diệt, hồn lên Bảng Phong Thần hết cả. Vậy thì bá đạo không phá nổi đồ trận của Thầy. Thầy mới thống nhất mà Giáo Truyền Đại Đạo khắp cả thế giới năm châu vũ trụ, chẳng phải truyền [các mối] đạo ngày hôm nay đó các con!" (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 5.)
"Ngày hôm nay [1935] THẦY GIÁO ĐẠO để biểu hiệu CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ là [để] độ các con lập công giải thoát cho kịp kỳ tận thế này nên THẦY GIÁNG ĐẠO CHƯA KHAI GIÁO. Đến CƠ PHỔ ĐỘ HỮU HÌNH TIÊU HOẠI HẾT rồi thì chỉ còn lại những đạo tâm hữu căn hữu phước anh tài tuấn kiệt THẦY MỚI KHAI GIÁO KỲ BA thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần HOÁT KHAI HUỲNH ĐẠO LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN, thì chừng đó HUỲNH ĐẠO thâu hết những kẻ đắc pháp huyền hư cùng hiền tài tuấn kiệt mà dẹp loạn can qua hoàn cầu mới được.." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 5.)
"Đến ngày THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, đó là [lúc] KHAI GIÁO ĐẠO HUỲNH, thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần xuống thế mà thống nhất hòa bình, năm châu cùng vũ trụ, [rồi] Thầy mới đem BIỂU HIỆU CAO ĐÀI mà truyền lưu cõi thế, các con không thông căn Đạo, không tìm hiểu được Thiên Cơ, tưởng lầm CAO ĐÀI [TAM KỲ PHỔ ĐỘ] truyền đạo Năm Châu Thống Nhất hoàn cầu. Chưa được! Vì Cao Đài [Tam Kỳ Phổ Độ] là cơ hữu hình đâu có Phật Thánh Tiên mà thống nhất, đâu có Phật Thánh Tiên mà lập Bát Môn Đồ Trận. (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 5.)
"... cho nên CAO ĐÀI là CƠ PHỔ ĐỘ không có lập đời. Còn lập đời là HUỲNH ĐẠO, là CƠ VÔ VI, là Phật Thánh Tiên xuống thế lập đời mới được..." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 6.)
"CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ là [cho] hôm nay [1935]. Cuối Hạ Ngươn đời tận thế là [lúc] tận diệt loài người năm châu cùng là vũ trụ [sẽ chỉ] còn lại kẻ hữu căn hữu đức đặng lập đời trở lại Thượng Ngươn, thì Luật Trời định [là] GIÁO [TÔN] ĐẠO HUỲNH [sẽ] XUỐNG THẾ độ kẻ hữu căn LẬP ĐỜI [chớ] không có phổ độ [nữa]. Hôm nay TẠO HÓA GIÁNG ĐẠO tại xứ Việt Nam. Thầy vâng lịnh đầu thai xuống thế độ kẻ hữu căn lập đời Thượng Ngươn trở lại, y lịnh của Tạo Hóa, cũng không có phổ độ. Phổ độ là do Thầy quá thương các con là nòi giống của Thầy [sẽ] bị Luật Trời tận diệt hết chẳng còn nên Thầy hoài tâm cùng Tạo Hóa nhiều lần mà xin xá tội các con, cũng xin cho Thầy độ hết các con về cùng Thầy (không nỡ bỏ). Vì vậy nên Thầy tá danh CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ, Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Chính thiệt là KỲ NÀY LẬP ĐỜI chớ KHÔNG CÓ PHỔ ĐỘ. Phổ độ đây là phần riêng của Thầy độ các con đó thôi. Nếu kỳ này Thầy không độ các con lập công giải thoát thì các con [sẽ] bị Luật Trời tiêu diệt hết chẳng còn." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 16.)
"... kẻ HỮU ĐỨC là kẻ có CÔNG TU KIẾP TRƯỚC. Buổi cuối Hạ Ngươn, đời tận thế Hội Long Hoa thì KẺ HỮU CĂN ĐƯỢC TIẾP LUỒNG ĐIỂN THIÊN tu hành hết trước ngày Thầy giáo Đạo Cao Đài này sẽ thấy đắc quả Phật Thánh Tiên. Còn người được đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ, TIẾP ĐIỂN VỚI THẦY, NGHE THẦY CHỈ DẠY, những kẻ đó hiện giờ (tức buổi cuối hạ ngươn) làm phận sự của Thầy [giao phó], HÀNH ĐẠO KỲ BA VÔ VI, đi thống nhất Triệt Giáo hoàn cầu mà THÀNH LẬP ĐẠO THẦY, thì những kẻ đó hiện giờ (tức buổi cuối hạ ngươn) tiếp điển với Thầy mà THÔNG HIỂU ĐƯỢC CĂN CỘI NGUỒN GỐC ĐẠO THẦY TỪ THƯỢNG GIỚI ĐẾN HỮU HÌNH THẾ GIAN, không cần Thầy nói giống như Thầy nói cho các con biết đây." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 17.)
"Vì vậy khi Thầy ngự Bạch Ngọc Kinh chầu Thượng Đế thấy Luật Trời xoay chuyển cận ngày tạo Thiên lập Địa, thay quả Địa Cầu, thay bầu trái đất, nhân vật cỏ cây đều thay đổi cả, đó là Ngũ Hành thâu loài người cùng vật chất đó các con, vì vậy Thầy gấp gấp mau mau GIÁNG ĐẠO Kỳ Ba, ngày mùng Một tháng Giêng năm Bính Dần [1926], Thầy dùng huyền diệu cơ bút khắp nơi mà kêu réo các con mau quay đầu tỉnh ngộ mà theo Đạo Cao Đài [rồi nhờ] có Tổ Tiên ủng hộ mà giải thoát hay là xác thịt còn sống được [đặng] Thầy độ [tới kỳ] lập đời Tân Dân Thánh Đức." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 17.)
"Đó là hữu hình, rồi đây tiêu hoại hết, nhưng đó là kế hoạch của Thầy triệu những kẻ căn Đời vào Đạo đó thôi. Còn THIỆT CỦA THẦY LÀ KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI, còn KỲ PHỔ ĐỘ TIÊU DIỆT HẾT RỒI. Còn lại những kẻ Đạo tâm hữu căn hữu đức sống đúng Luật của Thầy [thì] Thầy mới độ dẫn qua Kỳ Ba Vô Vi, đặng lập Đời. Vì Luật Trời định vậy NÊN CƠ PHỔ ĐỘ PHẢI BỊ TIÊU DIỆT THEO NHÂN SANH, đặng chọn kẻ Đạo tâm, đặng lập Đời, không một kẻ nào thoát khỏi vòng hỗn loạn binh đao cùng dịch chướng đó các con!" (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 19.)
"KỲ BA VÔ VI LÀ PHẬT THÁNH TIÊN XUỐNG THẾ LẬP ĐỜI nên Thầy chọn rặt những kẻ nguyên căn, còn kẻ hóa nhơn thì vớt hồn về quê cũ đó các con. Còn người hành phận sự kỳ ba của Thầy là những người đắc pháp huyền hư, lục thông pháp huệ, dùng thân cảm, tưởng mà tiếp điển với Thầy hành phận sự vô vi. Những người đó hiện giờ không có lãnh phận sự lập công trong cơ Phổ Độ. Vì cơ Phổ Độ của Thầy [là để] độ những kẻ thiếu căn thiếu đức còn lại... CÒN NHỮNG KẺ ĐẮC PHÁP HUYỀN HƯ TIẾP ĐIỂN VỚI THẦY LÀ BỰC PHẬT THÁNH TIÊN TAM GIÁO XUỐNG TRẦN ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI ĐẶNG THAY THẦY HÀNH PHẬN SỰ Ở THẾ GIAN. Đắc pháp mà tiếp điển được với Thầy là ở trên Tam giáo xuống mới tiếp điển được với Thầy, còn ngoài ra không ai được hết, đó là [các] vị MINH SƯ Ở TRẦN THẾ." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 19.)
"Thầy minh ra cho các con biết rõ, những người phận sự của Thầy ở thế kêu là Minh Sư, nhưng CÒN MỘT BẬC SƯ ÔNG CÒN [ĐANG] ẨN. Những người phận sự của Thầy đều có Sắc Lệnh của Trời Ban trên TAM GIÁO XUỐNG TRẦN GIAN THAY MẶT CHO THẦY ĐẶNG DIỆT TÀ ĐỘ CHÁNH, đặng LẬP ĐỜI, chẳng phải là thường. NGƯỜI PHẬN SỰ CỦA THẦY ĐỦ QUYỀN THƯỞNG PHẠT THẾ GIAN, ĐỦ TÀI NĂNG THAO LƯỢC, PHÁP BỬU NHIỆM MẦU. Nếu người thay mặt cho Thầy không đủ tài năng thì làm sao thống nhất Triệt giáo hoàn cầu mà lập thành Đại Đạo đó các con? " (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 21.)
"Hiện giờ, NGƯỜI NHẬN PHẬN SỰ CHƯA TỚI, còn ẩn danh như Khương Tử, để KỲ BA CÁC CON THẤY RÕ NHIỆM MẦU HUYỀN DIỆU CỦA CÁC SƯ ÔNG. Các con đừng lầm tưởng các bậc Minh Sư ở ngoài cơ Phổ Độ không có vô lập công như các con, các con cho đó không phải là người Đạo Cao Đài là quá đổi quá dốt. Thầy cho biết: Đạo Cao Đài gồm hết những kẻ hữu căn hữu đức hùng anh tuấn kiệt, cùng các bậc Minh Sư ở [trên] toàn quốc Đất Việt đều chung lo tạo dựng Đạo Cao Đài." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 21.)
"Cơ lập công với Tạo Hóa, KỲ HỘI LONG HOA TẬN THẾ có nhiều BẬC TAM GIÁO HẠ TRẦN ĐẦU THAI MƯỢN XÁC LÀM NGƯỜI LẬP CÔNG KỲ BA VÔ VI, dựng nước khai non, thống nhất Triệt Giáo, thành lập Đạo Thầy. [Họ là] bậc thiện căn, hữu đức không ham mê vật chất quyền danh." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 21.)
"Phán Đoán Đại Đồng, là ngày Luật Trời thưởng phạt loài người, tận diệt khắp cả thế gian hoàn cầu cùng Vũ trụ thì không còn một chéo đất nào ở thế gian còn nguyên vẹn. Chừng đó Thầy cho chư Thần độ xác những kẻ hữu căn hữu đức, độ xác những anh hùng tuấn kiệt đạo tâm ẩn nơi Thánh Địa đem về non đảnh là nơi Huyền Linh Thiên định trước giờ ở yên nơi đó, chờ ngày THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO TAM GIÁO GIÁNG TRẦN thâu những kẻ đạo tâm hùng anh tuấn kiệt mà hữu dụng [vào lúc] KỲ BA LẬP ĐỜI KHAI NON DỰNG NƯỚC đó các con." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 22.)
"Đàn hôm nay [1935] là Tam Nhật Đàn. Đàn của Thầy minh chơn lý là Minh Sư thiệt của Đạo, để cho các con sau này coi biết rõ sự thật từ cơ PHỔ ĐỘ HỮU HÌNH cho tới KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI. Đó là Thầy cho biết rõ CĂN CỘI NGUỒN GỐC ĐẠO TRỜI (Thiên Đạo). Còn cơ Phổ Độ của Thầy mượn giả làm thiệt nên Thầy không cho biết sự thiệt, cho biết thì lậu cơ mưu độ các con sao được, chớ Thầy nào có muốn giấu." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 23.)
"Thầy dặn các con hãy nhớ, đến ngày hỗn loạn là cơ của Thầy bế tắc, là kỳ hữu hình đã mãn, sang qua kỳ vô vi là các con bít đường lối, không biết Đạo đi tới nữa là chi, CHỈ NHỮNG KẺ CÓ ĐIỂN QUANG QUÁN TƯỞNG TIẾP VỚI THẦY MỚI HIỂU THÔNG VIỆC... Các con hãy nhớ kỹ lời Thầy. Thánh giáo [của] Thầy [hãy] cất giữ, đời hỗn loạn mới được phép cho ra, bất tuân mệnh lệnh đại tội đó nghe con." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 26.)
Từ nội dung Tam Nhật Đàn, xuyên qua 15 đoạn trích dẫn trên, một bức tranh tổng thể rõ nét đến độ không thể diễn dịch sai lầm và không thể không tin, nhất là sau khi đối chiếu lại với những diễn biến trong ĐỜI & ĐẠO suốt một thế kỷ qua, Tam Nhật Đàn có thể nói đúng là một văn bản "lập ngôn làm bằng chứng" của Thượng Đế về toàn bộ CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA HUYỀN KHÔNG THIÊN THƯỢNG, từ khi bắt đầu "giáng Đạo" năm 1924 rồi hoằng khai CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ năm 1926 để phổ độ nhơn sanh đất Việt, rồi hoằng khai THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO năm 1962, là cơ kỳ tạm thời trong giai đoạn chờ đợi, tiếp theo là giai đoạn XUẤT LỘ CỦA TRÀO TAM đầu Thượng Ngươn do chính Thượng Đế cùng với chư vị Phật Thánh Tiên của Tam Giáo đã chiết thân đầu thai xuống trần ngay trên đất Việt để "khai Cơ" QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO năm 2017, rồi "giáng Đạo" với danh xưng GIÁO HỘI TRƯỜNG THIÊN để phổ truyền THIÊN ĐẠO HUYỀN KHÔNG, vẫn lấy biểu hiệu CAO ĐÀI với ý nghĩa "Đài Cao tột Huyền Không" cũng là "Ngôi Chí Tôn Chí Thượng", sau cùng là tiến tới "khai Giáo" năm 2024 với danh xưng CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ - THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA mở màn Thượng Ngươn đầu thời điểm LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN - THIẾT LẬP KỶ NGUYÊN DI LẠC. [Chú giải của người soạn.]
4. SẤM KÝ THƯỢNG ĐẾ HÓA THÂN BA LẦN XUỐNG THẾ, XUỐNG THẾ LẦN BA
Từ 15 đoạn sấm ký trên vừa trích dẫn trong Tam Nhật Đàn, chúng ta có thể rút ra được 6 huyền khải lớn:
1. CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ hoằng khai năm 1924 chỉ là bước khởi đầu trong LẬP TRÌNH CỦA THIÊN THƯỢNG nhằm phổ độ nhơn sanh Việt chưa được chấm là "hữu căn hữu đức". Đến THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO hoằng khai năm 1962 là cơ kỳ tạm thời trong giai đoạn chờ đợi. Nay, đầu thiên niên kỷ 2000, bước vào thời kỳ chuyển tiếp THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI, thời kỳ hoằng khai trên đất khách ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG hay còn gọi là THIÊN ĐẠO HUYỀN KHÔNG, để tuyển sĩ hiền chuẩn bị lập đời Thánh Đức Tân Dân. [Chú giải của người soạn.]
2. THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA bắt đầu vào khoảng thời điểm mà thế giới chứng kiến "Trung Đông chiến họa lưỡng dân điêu tàn" và "Ngòi lửa dậy bốn bề nao nức, năm châu tràn tuyệt dứt nhơn sanh". Cũng vào thời điểm đạo đời "đến ngày hỗn loạn đó các con bít đường lối không biết Đạo đi đến đâu nữa" ; "bá đạo ra tranh hùng, Triệt Giáo dùng tả đạo bàng môn mượn danh Tiên Phật mà độ giành người, cướp giật nhân sanh, làm nhiều điều tà thuật chóa mắt" ; và đó là ngày mà "cơ Phổ Độ của Thầy đã mãn" để chuyển qua cơ THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. [Chú giải của người soạn.]
3. VÔ VI KỲ BA là một "cơ kỳ" trong sự vận hành của THIÊN ĐẠO, là ứng danh cho một giai đoạn diễn biến, qua đó công việc của các đấng Phật Thánh Tiên nhận lệnh Tam Giáo đầu thai xuống thế gian trong xác thân con người dưới trần để thực hiện chương trình LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN. Các "Phật Thánh Tiên tại trần" này sẽ không làm "công tác hoằng hóa hữu vi", như là của các tiền bối đã làm để "lập công bồi đức" trong cơ Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà chỉ "thực hiện sứ lệnh vô vi" trong cơ kỳ của THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA . [Chú giải của người soạn.]
4. Các "Phật Thánh Tiên tại trần" này là những "Thiên Nhân" tại thế, là những "Minh Sư " tự biết rõ "căn phận vô vi" của mình, lặng lẽ "tiếp điển" tu thân, sống giữa chợ đời ô trược, hành động như người tầm thường, cho đến khi đúng thời điểm "nhận sứ lệnh hành động" thì Thượng Thiên mới "khai mở bộ đầu" để họ "tự ráp nối" với "chơn linh của mình", "đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ" mà trở thành siêu phàm, hiểu rõ thiên cơ, tận tường chơn lý, "biết đường hành sự" khế hợp với trên Thiên. Điều này cũng được Thượng Đế xác lập thêm một lần nữa trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967: [Chú giải của người soạn.]
"GẦN ĐẾN LÚC MẬT TRUYỀN BIỆN PHÁP
CHO NHƠN HIỀN TỰ RÁP CHƠN LINH
NHỮNG CON ĐÚNG ĐẮN ĐIỂN HÌNH
QUI THÀNH YẾU LÝ SIÊU HÌNH GIÁNG NGAY."
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 42, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
5. Trong số những "Minh Sư " tại thế có các "Sư Ông" căn cơ rất cao trọng. Đàn cơ ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Sửu 1949, Hiệp Thiên Đài, Chiếu Minh Tam Thanh, ghi trong tập Đại Đạo Luận, cho biết là những Minh Sư và các Sư Ông vẫn chưa xuống thế, chỉ là cận ngày thôi. [Chú giải của người soạn.]
"ĐẠI HỘI LONG HOA ĐÃ CẬN RỒI
THÁNH THẦN TIÊN PHẬT SẮP LÌA NGÔI
TỀ AN BÁ TÁNH QUI KIM CỔ
THIÊN MẠNG PHỤNG HÀNH CHỚ THẢ TRÔI."
(Trích dẫn ĐẠI ĐẠO LUẬN, trang 11, Hiệp Thiên Đài, Chiếu Minh Tam Thanh 1949.)
Nhưng đến năm 1967, căn cứ theo lời Thầy Trời khải lộ trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo thì các Minh Sư và các Sư Ông này đã có mặt dưới trần. [Chú giải của người soạn.]
"PHẬT THÁNH THẦN TIÊN ĐÃ XUỐNG RỒI
CHỈ CHỜ GIỜ PHÚT ĐÚNG ĐI ĐÔI
GIANG SƠN ĐẤT VIỆT LUÔN TÀI ĐẤP
ĐẤT NƯỚC NHÀ NAM SẴN ĐỨC BỒI."
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 3, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Như vậy, dựa vào hai mốc thời gian lúc hai sấm ký xuất thế thì có thể đoán ra là những Minh Sư và các Sư Ông đã hạ sinh trong khoảng thời gian 1949-1967. Tính đến hôm nay, năm 2025, thì các vị này đang ở độ tuổi trẻ nhất là 52 tuổi và cao niên nhất là 76 tuổi. [Chú giải của người soạn.]
6. Thượng Đế đã nhiều lần huyền khải sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam. Trích dẫn Ngọc Kinh của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967, thì Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chiết linh quang hóa thân xuống thế Giáo Đạo Nam Phương để độ con phàm; là vị Đế Chúa (Chúa Thánh Bạch Ngọc Cung) xuất sinh tại Nam Bang để duyệt phẩm hàm (sắc phong cho chư thánh); là vị "Sư Ông Cao Đại" còn đang ẩn và sẽ có lúc ẩn trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (Ngọc ẩn Kỳ Sơn). Vì cơ THIÊN ĐẠO đã định rồi nên Sư Ông Cao Đại "dạ phải cam", phải chờ cho đến đúng ngày giờ thì Đức Ngài mới lộ diện: [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC ẨN KỲ SƠN, XUẤT TẠI NAM [VIỆT]
HOÀNG GIA XUỐNG THẾ ĐỘ CON PHÀM
THƯỢNG KHAI CƠ ĐẠO VĂN THIÊN ĐỊNH
ĐẾ XUẤT NAM BANG DUYỆT PHẨM HÀM
GIÁO HÓA CON THƠ HÀNH CHÁNH PHÁP
ĐẠO MẦU HUẤN LUYỆN SẮC GIÀ LAM
NAM KỲ ĐẾ CHÚA CÒN IM ẨN
PHƯƠNG HƯỚNG ĐỊNH RỒI DẠ PHẢI CAM."
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Giáo Đạo Nam Phương. Đế Chúa Xuất Tại Nam.]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 39, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Đoạn sấm ký trên, ra đời vào thời điểm 1967, chắc chắn là huyền khải về Ngôi Hai Trào Tam, vì Ngôi Hai Trào Một Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu (1878-1932) và Ngôi Hai Trào Hai Võ Văn Phẩm (1888-1940) đã "xuống thế độ con phàm ... xuất tại Nam Việt" trong thời kỳ Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ và đã trở về thiên ngôi từ lâu rồi, còn nội dung huyền khải năm 1967 này thì cho biết là Đức Ngài đang có mặt, đang ẩn và sẽ lộ diện trong tương lai. [Chú giải của người soạn.]
Như vậy, đã rõ ràng vị "Sư Ông Cao Đại Nhất" trong các Sư Ông chính là Ngôi Hai Trào Tam. Đức Ngài đang có mặt tại thế trần. Như lời Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu Ngôi Hai Trào Một đã khải lộ trong đàn cơ của Tân Chiếu Minh tại Âu Châu năm Kỷ Mão 1999 (đàn cơ dạy đạo cho hiền huynh Quyền Pháp) là "Thầy lâm phàm rồi!" Thầy Thượng Đế lâm phàm thì được người đạo Cao Đài tôn xưng là Ngôi Hai. Lâm phàm khai đạo lập giáo lần thứ ba thì gọi đó là Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
"HẠ NGƯƠN HẦU MÃN THẦY LÂM PHÀM RỒI!
THẦY LÂM PHÀM CỨU ĐỜI NGÀY CUỐI
VỚT NGUYÊN CĂN TRONG BUỔI HẠ NGƯƠN
LOAN TRUYỀN ĐẠO PHÁP CHÁNH CHƠN...
NGÀY MẠT HẬU NGÔI HAI TÁ THẾ
MỞ CƠ MẦU LÀ ĐỂ LẬP ĐỜI
LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN
ĐỘ HỒN CHỦNG LOẠI, NGƯỜI NGƯỜI THÀNH TIÊN."
[Khoán: Thầy Lâm Phàm Rồi! Thầy Lâm Phàm Cứu Đời Ngày Cuối. Ngôi Hai Tá Thế Mở Cơ Mầu Là Để Lập Đời Thánh Đức Tân Dân.]
(Trích dẫn đàn cơ giờ Sửu ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão (22/11/1999), tại thánh đàn của Quyền Pháp, Âu Châu, Ngôi Hai Ngô Minh Chiếu giáng.)
Thầy "lâm phàm rồi". Thầy lâm phàm để "vớt nguyên căn", để "loan truyền đạo chánh pháp chơn". Thầy lâm phàm tá thế là Ngôi Hai Trào Tam, để "mở cơ mầu", để "lập đời Thánh Đức Tân Dân", để "độ hồn chủng loại", để "người người thành Tiên". Vinh diệu thay! "Các người hãy đem "Tin Lành" này mà rao giảng khắp thế gian!" Xin phép được mượn lời Đấng Jesus Christ năm xưa để tán thán sự lâm phàm trở lại lần này của Thánh Chúa. [Chú giải của người soạn.]
Sấm ký trong kinh Bình Minh Đệ Tam năm Canh Tuất 1970 của Cao Đài Thống Nhứt cũng huyền khải sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam: "Ngọc Hoàng Thượng Đế, Kim Viết Cao Đài, Giáo Đạo Nam Phương, Hạ Thế Kỳ Tam." [Chú giải của người soạn.]
“NGỌC SẮC HOÀNG CUNG ĐÃ XUẤT HÌNH
THƯỢNG TRIỀU ĐẾ NGỰ TẢ BÌNH MINH
KIM MÔN VIẾT LUẬN QUYỀN THIÊN HẠ
CAO KHẢI ĐÀI DANH CHUYỂN THẾ TÌNH
GIÁO HUẤN ĐẠO MẦU XÂY THÁNH ĐỨC
NAM BANG PHƯƠNG HƯỚNG DỰNG TOÀN LINH
HẠ NGƯƠN THẾ HỆ DÂN VI THIỆN
KỲ MẠT TAM TÒA HỘI CHÚNG SINH”
[Khoán cột 1 + cột 3: Ngọc Hoàng Thượng Đế, Kim Viết Cao Đài, Giáo Đạo Nam Phương, Hạ Thế Kỳ Tam.]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), đồng tử Kim Quang tiếp điển, của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt.)
Đức Ngài đang có mặt dưới thế vì "Ngọc sắc Hoàng cung đã xuất hình, Bạch Ngọc ly cung tá thế trần" với mục đích là để "chuyển thế tình xây Thánh Đức", để "dựng toàn linh dân vi thiện", để "hội chúng sinh". [Chú giải của người soạn.]
BÌNH MINH ĐỆ TAM giải theo bạch văn thì ý nghĩa là quyển kinh tên Bình Minh cuốn thứ ba. Nhưng giải theo huyền khải sấm ký thì nó hàm một nghĩa khác. BÌNH MINH nghĩa là TRỜI SÁNG, tiếng hán việt là MINH THIÊN. Cho nên nói BÌNH MINH ĐỆ TAM là nói MINH THIÊN ĐỆ TAM TRÀO. Minh Thiên là tôn hiệu dưới thế của Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. Nói TẢ BÌNH MINH là nói MÔ TẢ MINH THIÊN. Mô tả gì? Mô tả "quyền thiên hạ" (nắm quyền dưới thế). Mô tả sứ mạng kỳ ba của Đức Ngài là "chuyển thế tình xây [nền] Thánh Đức, [phục] dựng toàn linh [khiến] dân vi thiện, hội chúng sinh [lập Long Hoa Hội]". [Chú giải của người soạn.]
NGỌC CHIẾU HÀO QUANG BUỔI THẾ TÀN [Thượng Đế xuống thế buổi Hạ Ngươn]
HOÀNG KHAI ĐẠO PHÁP CÕI NAM BANG [khai nền Đại Đạo trên đất nước Việt Nam]
THƯỢNG NGƯƠN TÁI TẠO XÂY NỀN MÓNG [xây lại nền móng buổi Ngươn Thượng]
ĐẾ CHUYỂN KỲ TAM THẢ BÁCH THOÀN [chuyển sanh Kỳ Ba thả vô số đạo thuyền]
TÁ BÚT TẢ BÌNH MINH THỐNG HỘI [nói cho biết rõ do Minh Thiên thống hội]
DANH LƯU THẤT ỨC TẠI TRẦN GIAN [danh lưu 700 ngàn năm tại thế gian]
CAO MINH PHỔ HÓA DÂN VI THIỆN [Minh Thiên Cao Đài phổ hóa độ dân quy thiện]
ĐÀI CHUYỂN CĂN CƠ LẬP NIẾT BÀN. [Bạch Ngọc Đài chuyển bậc căn cơ lập Niết Bàn.]
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tá Danh Cao Đài. Buổi Thế Tàn, Cõi Nam Bang, Xây Nền Móng, Kỳ Tam Thả Bách Thoàn, Bình Minh Thống Hội, Thất Ức Tại Trần Gian, Phổ Hóa Dân Vi Thiện, Căn Cơ Lập Niết Bàn.]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 6 tháng 8 năm Canh-Tuất (6-9-1970), pháp đàn Huệ Chiếu Quang, đồng tử Huệ Linh Thông, Văn Phòng Đại Đạo, Cao Đài Thống Nhứt.)
TẢ BÌNH MINH THỐNG HỘI là diễn tả cảnh tượng Minh Thiên thống hội Kỳ Tam. Thời kỳ đó Đức Ngài sẽ thả vô số đạo thuyền của các Phật Thánh Tiên từ Tam Giáo Tòa xuống thế để phò trợ. Đức Ngài mang nền Đạo Pháp nước nhà (VN) khai mở trên đất Tây Phương hóa độ nhân loài quy thiện. Đức Ngài xuống thế gian để thiết lập Niết Bàn tại thế và sẽ thành tựu mục tiêu này trong bảy ức niên (bảy trăm ngàn năm). Nếu vẫn chưa mường tượng được một danh xưng khác "rất đậm màu sắc Phật Giáo" của Đức Ngài thì vài đoạn sấm ký dưới đây sẽ khải lộ rõ hơn. [Chú giải của người soạn.]
“VÂNG THƯỢNG ĐẾ HUYỀN THIÊN MANG HIỆU [Ngọc Hoàng Thượng Đế hiệu Huyền Thiên]
THỌ SẮC TRỜI HIỆU TRIỆU LINH CĂN [hiệu triệu linh căn thọ sắc chỉ của ÔNG TRỜI]
QUYỂN BA KINH NGỌC LẬP VĂN [lập văn làm chứng cứ cho màn ba của Bạch Ngọc Kinh]
KHI ĐỜI ĐẠI CHIẾN CHỚP GIĂNG HOÀN CẦU [khi đời đại chiến chớp giăng khắp hoàn cầu]
TAM THẬP LỤC LUÂN CHÂU GIÁNG THẾ. [36 Thiên Quân vâng lệnh Huyền Thiên xuống thế]
CHIẾT LẦN BA CHUYỂN THỂ, NGỌC HOÀNG [chiết linh quang hóa sanh xuống trần lần ba]
HIỆN THÂN DI LẠC TRẦN GIAN, [Ngọc Hoàng sẽ hiện thân dưới thế là Di Lạc]
PHẬT VƯƠNG LÀ HIỆU MINH HOÀNG LÀ DANH. [hiệu là Phật Vương danh là Minh Hoàng]
THẦY LÃNH LỆNH XUỐNG MIỀN DƯƠNG THẾ [xuống miền thế gian Thầy lãnh lệnh]
CHỜ ĐẾN NGÀY KHÁNH TỂ TRIỀU BAN [chờ đến ngày khánh tể triều ban]
ĐẦU THẦY ĐỘI NẶNG THIÊN HOÀNG [trên đầu Thầy có Thiên Hoàng]
VAI MANG DƯƠNG THẾ VAI QUÀNG KINH LUÂN." [một thân đời đạo ôm quàng hai tay]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3: DI LẠC CHỦ NGƯƠN, trang 34, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Chữ QUYỂN 捲 có nghĩa là cuốn rèm (kéo màn). QUYỂN BA NGỌC KINH LẬP VĂN theo bạch văn chỉ là quyển Ngọc Kinh Ba lập văn làm chứng cứ, nhưng huyền khải sấm ký thì nó lại là "lập văn cho biết Bạch Ngọc Kinh kéo màn diễn lần ba" hay nói cách khác "lập văn cho biết màn ba của Bạch Ngọc Kinh". Cho biết gì? Cho biết 36 vị Luân Châu sẽ giáng thế theo lệnh của Huyền Thiên Thượng Đế và chính Thượng Đế Huyền Thiên cũng chiết linh quang hóa thân xuống thế "chuyển thể hình" lần ba. Dưới thế Đức Ngài hiệu là DI LẠC PHẬT VƯƠNG, danh là MINH HOÀNG. Dưới thế, THẦY (giờ đã trở thành là Ngôi Hai, con Thiên Chúa) vừa phải lo đời vừa phải lo Đạo đúng với câu "vai mang dương thế vai quàng kinh luân". Tuy rời Bạch Ngọc Kinh nhưng THẦY vẫn luôn kết nối với Thiên Chúa Cha đúng với câu "đầu Thầy đội nặng Thiên Hoàng" [Chú giải của người soạn.]
Đức Phật Thầy Tây An cũng khải lộ Bắc Đẩu Huyền Thiên tức Huyền Thiên Thượng Đế đã hóa thân xuống thế tại vùng Nam Việt rồi.
“KÌA HƯỚNG BẮC CHÒM SAO ĐẨU TINH ĐÀ ỨNG LỘ [Bắc Đẩu Tinh nay đà xuống thế]
XẸT VÀO NAM KHẮP CHỖ ÁNH HÀO QUANG [hóa sanh vào Nam Việt hào quang chiếu khắp]
CHIẾU TƯỜNG VÂN NGŨ SẮC KHẮP NAM BANG.” [mây lành ngũ sắc tỏa trùm Nam Bang]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM, tả kinh vào ngày 11 tháng 2 Tân Hợi (6-3-1971), do đồng tử Huỳnh Hoa tiếp điển, Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt.)
Từ ngày CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO khai mở đến nay đã tròn một thế kỷ, biết bao huyền khải trong Tam Nhật Đàn đã thành hiện thực, và trong các sấm ký khác cũng đã ứng hiện. THIÊN CƠ thật là ảo diệu! Hồng ân của THƯỢNG ĐẾ thật là không thể nghĩ bàn! Đúng thật là cảnh tượng: [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC CHIẾU ĐIỂN QUANG KHẮP CÕI TRẦN [điển quang Ngọc Đế bố khắp cõi trần]
HOÀNG KHAI THIÊN ĐẠO LẬP TÂN DÂN [Hoàng Thiên khai Thiên Đạo để lập hội Tân Dân]
THƯỢNG TRUNG HẠ TRÍ TẦM CHƠN PHÁP [thượng trung hạ trí đều có thể tầm chơn pháp]
ĐẾ NGỰ ĐÀI SEN CỬ BÚT THẦN [Minh Đế ngự đài sen nâng bút thần hoằng hóa chúng]
TÁ THẾ NAM BANG MINH ĐỨC HIỆN [tái sinh lần ba tại Nam Việt đấng Minh Đức hiện thân]
DANH LƯU THẤT ỨC VỚI TOÀN DÂN [700 ngàn năm dài lưu danh với toàn nhân loại]
CAO ĐIỀU TÁI TẠO KỲ NGƯƠN THƯỢNG [Thiên Điều Cao Đài tái tạo kỳ thượng ngươn này]
ĐÀI CHƯỞNG LINH CĂN THOÁT KHỔ TRẦN." [Bạch Ngọc Đài chủ trì linh căn thoát trần khổ]
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tá Danh Cao Đài. Thiên Đạo Chơn Pháp Nam Bang Tái Tạo Kỳ Ngươn Thượng.]
(Trích dẫn KINH BÌNH MINH ĐỆ NHỊ. Văn Phòng Đại Đạo, Cao Đài Thống Nhứt. Đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Kỷ Dậu (29/6/1969), pháp đàn Mỹ Thông, đồng tử Bạch Hoa.)
"TIẾNG QUANG CỬU KHIẾU THỊ CAO NHÂN [Cửu Quang cả tiếng gọi cao nhân,]
BẠCH NGỌC LY CUNG TÁ THẾ TRẦN [Ngọc Đế lìa Bạch Cung hóa thân xuống thế trần]
THƯỢNG ĐẲNG TAM KỲ KHAI THÁNH THỂ [khai Thánh Thể Lần Ba, thượng đẳng hay]
TRUNG THỪA HẠ PHẨM HÓA HOẰNG ÂN [trung thừa hạ phẩm đều thọ ân hoằng hóa,]
TRIÊU VĂN Ư ĐẠO TẦM CHƠN LÝ [nghe được đạo pháp phải tầm học chơn lý cao siêu]
TỊCH VÃNG ÂM PHÙ PHẾ NHỤC NHÂN [để lúc hết thọ mạng bỏ xác thân phàm rồi]
TỨC KIẾN LIÊN ĐÀI LINH ĐIỂN NGỰ [thì tức khắc sẽ thấy đài sen để linh điển ngự,]
TẠI TIỀN CỔ PHÚC PHỤC TÂN DÂN." [lúc còn tại thế thì vỗ bụng no cơm vui phận Tân Dân]
[Khoán: Bạch Ngọc Ly Cung Tá Thế Trần, Tam Kỳ Khai Thánh Thể. Nghĩa: Đế Bạch Ngọc Cung đã rời cung ngọc xuống thế phàm khai Thánh Thể Kỳ Tam (tức khai Trào Tam).}]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM. Văn Phòng Đại Đạo, Cao Đài Thống Nhứt. Đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), đồng tử Kim Quang, pháp đàn Huệ Chiếu.)
TRIÊU VĂN Ư ĐẠO lấy từ câu trong Luận Ngữ "Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ" (sáng nghe được đạo tối có chết cũng không ân hận). CỔ PHÚC lấy từ câu nói của Trang Tử "Hàm bộ nhi hi, cổ phúc nhi di" (ngậm cơm mà vui, vỗ bụng rong chơi). CỬU QUANG là ám chỉ Thái Linh Cửu Quang Qui Sơn Kim Mẫu, là một danh hiệu khác mà thế gian tôn xưng Đức Tây Vương Mẫu. BẠCH NGỌC LY CUNG TÁ THẾ TRẦN KHAI THÁNH THỂ KỲ TAM khải lộ Chúa Thánh đã rời Bạch Ngọc Cung xuống thế khai Thánh Thể Lần Ba. Hai chữ Thánh Thể hàm hai ý. Ý thứ nhất là nói nhân thân của Đức Ngài. Ý thứ hai là nói Hội Thánh của Đức Ngài. [Chú giải của người soạn.]



