CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA GIÁO
CƠ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO
SẤM KÝ
NAM BANG VINH DIỆU
TRỜI KHAI HOA HỘI
PHẬT LẬP ĐỜI TÂN
THIÊN PHẬT THÁNH CHÚA
HIỆN TƯỚNG TẠI TRẦN
CHIẾU SẮC TAM ẤN
HỘI THIÊN ĐỊA NHÂN
THIÊN ĐẠO HUYỀN KHÔNG
GIÁO CHÚNG ĐẠI ĐỒNG
KỲ BA CHUNG CUỘC
CỨU VỚI TRẦN MÔNG.
1. SẤM KÝ TIỀN ĐỒ VINH DIỆU CỦA DÂN TỘC VÀ ĐẤT NƯỚC
Trích dẫn Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I.44, Cao Đài, xb 1972, đàn cơ ngày 15 tháng 9 năm Bính Dần (24/10/1926) tại nhà ông Hồ Quang Châu và bà Phan Thị Lân, Đấng Chí Tôn đã huyền khải như sau:
THẦY HIỆP CÁC CON LẠI MỘT NHÀ
NAM BẮC CÙNG RỒI RA NGOẠI QUỐC
CHỦ QUYỀN CHƠN ĐẠO MỘT MÌNH TA .
MỘT NƯỚC NHỎ NHOI TRONG VẠN QUỐC
NGÀY SAU LÀM CHỦ MỚI LÀ KỲ."
Đoạn sấm ký trên cho thấy TẤT CẢ ĐỀU DO Ý TRỜI; TẤT CẢ ĐỀU NẰM TRONG SỰ SẮP ĐẶT CỦA THƯỢNG ĐẾ; TẤT CẢ ĐỀU DIỄN TIẾN THEO SỰ VẬN HÀNH CỦA BỘ MÁY THIÊN CƠ. Người dân Việt, toàn thể, trong quốc nội lẫn hải ngoại, phải biết rõ sấm thi này để có thể tìm thấy sự yên bình trong trái tim, để thắp sáng đức tin và chờ đợi một tiền đồ sáng lạng của dân tộc và của nhân loại, để đón chào một kỷ nguyên mới YÊU THƯƠNG ĐẠI ĐỒNG. Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn. [Chú giải của người soạn].
2. SẤM KÝ LẬP TRÌNH THIÊN KHAI NHỨT MẠCH CỦA ĐỨC CHÍ TÔN
Trích dẫn Chương Trình Long Hoa Đại Hội, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 8 năm Canh Tý (8/10/1960), Ngũ Phụng Kỳ Sơn, Thiên Khai Huỳnh Đạo. Đấng Chí Tôn đã huyền khải:
TIỀN KHAI ĐẠO THẦY TRỜI CHUYỂN HÓA
PHÂN TAM GIANG DANH TÁ CAO ĐÀI
CÀN KHÔN CHÚA TỂ LINH OAI
ĐỘ ĐOÀN CON DẠI TRẦN AI KHỔ SẦU.
[Khoán: Tiền Khai Đạo, Phân Tam Giang.]
Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ được phân theo ba giang là Cao Đài Tiền Giang, Cao Đài Trung Giang và Cao Đài Hậu Giang, gọi chung là TAM GIANG. Lúc mới bắt đầu giáng đạo Đức Chí Tôn TÁ DANH CAO ĐÀI, về sau mới biết Cao Đài Tiên Ông chính là CÀN KHÔN CHÚA TỂ LINH OAI, là Huyền Khung Cao Thượng Đế, tôn danh được xưng tụng theo cuốn kinh Ngọc Hoàng Đảo Cáo xuất xứ từ các đạo Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường. Sau này, vào ngày Vía Ngọc Hoàng năm 2020, đàn giờ Ngọ, ngày mùng 9 âm lịch đầu năm Canh Tý (2/2/2020), tại thánh đàn Nam Thành của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn, Đức Chí Tôn đã giáng điển khải lộ cho biết Đức Chí Tôn chính là Đấng Tạo Hoá Thiên với danh xưng là Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. Truy cập tư liệu tại: https://onglaidoky3.com/p312a465/ngoc-kinh-long-hoa-mo-hoi-khai-quoc-dao). [Chú giải của người soạn].
TIỀN KHAI ĐẠO THẦY TRỜI CHUYỂN HÓA là nói về giai đoạn "tiền khai đạo" của chương trình "lập đời Tân Dân" mà Đức Chí Tôn đã chưởng quyết. Trong giai đoạn đầu tiên này Cao Đài Tiên Ông "chỉ giáng đạo chứ chưa khai giáo" để "độ dân Việt hữu phước mà thiểu căn" vào thời điểm đó, thời điểm đầu thập niên 1920s, là thời kỳ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ ra đời hoằng hóa dân chúng trên đất nước Việt Nam. Cao Đài Tiên Ông khải lộ: "Thầy tá danh CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ, Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Chính thiệt là KỲ NÀY LẬP ĐỜI chớ KHÔNG CÓ PHỔ ĐỘ. Phổ độ đây là phần riêng của Thầy độ các con đó thôi.... Đó là kế hoạch của Thầy triệu những kẻ căn Đời vào Đạo đó thôi. Còn thiệt [Đạo Huỳnh, Giáo] của Thầy là KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI." (Trích dẫn Tam Nhật Đàn, trang 19, Bát Quái Đồ Thiên, Cao Đài Đại Đạo, 1935). [Chú giải của người soạn.]
Nhiệm vụ chính của CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ là gom bá tánh Việt "hiệp nhập Cao Đài" để họ lo bồi công lập đức, trích dẫn từ 2 câu liểng tại Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh đã huyền khải từ nhiều năm trước về hai sứ mạng khác nhau của hai thời kỳ trong một mạch ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG (HUYỀN KHUNG): [Chú giải của người soạn.]
"HIỆP NHẬP CAO ĐÀI, BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ.
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA."
Câu thứ nhất HIỆP NHẬP CAO ĐÀI, BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ huyền khải thời kỳ "tiền khai đạo" để "phổ độ bá tánh Việt" do CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ chịu trách nhiệm thực hiện. Câu thứ hai THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA huyền khải giai đoạn "hậu khai giáo" do THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA chịu trách nhiệm "tuyển độ anh hùng tuấn kiệt hiền tài" để họ lãnh sứ mạng thực hiện "hiệp ngũ chi tam giáo hội Long Hoa". [Chú giải của người soạn.]
Đấng Chí Tôn cũng đã xác định từ năm 1935 rằng"CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ là hôm nay [tức nói thời kỳ tiền khai đạo]. Cuối Hạ Ngươn đời tận thế là tận diệt loài người năm châu cùng là vũ trụ [sẽ chỉ] còn lại kẻ hữu căn hữu đức đặng Lập Đời trở lại Thượng Ngươn, thì LUẬT TRỜI định GIÁO ĐẠO HUỲNH XUỐNG THẾ độ kẻ hữu căn LẬP ĐỜI, KHÔNG CÓ PHỔ ĐỘ." (Trích dẫn Tam Nhật Đàn, trang 16) Và, "thiệt của Thầy là KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI," tức là nói chính Thầy sẽ xuống thế khai mở tôn giáo trong tương lai. (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 19.) [Chú giải của người soạn.]
Với các huyền khải trên thì đã rõ THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA mới đích thực là "Tôn Giáo" do chính Giáo Tôn Thượng Đế xuống thế khai mở, tức là giai đoạn CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ, đúng vào giao điểm "cuối hạ ngươn đầu thượng ngươn", thời kỳ mà nhân loại sẽ phải chứng kiến những biến động kinh hồn (Trích dẫn Thượng Đế Giảng Chân Lý, xb 11/2006 tại VN; Trích dẫn Tam Nhật Đàn, đàn cơ ngày 15 tháng Giêng năm Ất Hợi 1935, Bát Quái Đồ Thiên Hà Tiên, Cao Đài Đại Đạo). Truy cập tư liệu tại: https://onglaidoky3.com/p322a344/thuong-de-giang-chon-ly ; và https://onglaidoky3.com/p322a338/tam-nhat-dan). [Chú giải của người soạn.]
Giữa hai giai đoạn "tiền khai đạo, hậu khai giáo" của Đức Thượng Đế là giai đoạn Thiên Khai Huỳnh Đạo "nhất thời hoằng khai" (chỉ tạm thời hoằng khai) mở ra vào những năm đầu thập niên 1960s là để Phật Thầy Tây An dọn đường cho tương lai. Đoạn sấm ký bên dưới cho thấy rõ điểm này. [Chú giải của người soạn.]
"RẰM THÁNG SÁU TỴ NIÊN XUẤT THẾ [ngày xuất sấm ký này, 15/6 AL Ất Tỵ 1965]
NƠI HẬU GIANG NGỌC ĐẾ ĐỊNH RỒI [Ngọc Đế định nơi Long Môn tại Tắc Vân, Cà Mau]
LONG MÔN SẤM KÝ ĐỂ LỜI [ghi lời sấm để lại ngày sau làm chứng cứ]
CHƠN TRUYỀN HUỲNH ĐẠO NHẤT THỜI HOẰNG KHAI [Nay 1962 tạm thời lập TKHĐ]
TIÊN TRI TRƯỚC HẬU LAI SẼ RÕ ... [tương lai sẽ thấy rõ huyền khải này]
CHO TA MƯỢN THẾ CƠ VÀNG [cho Phật Thầy Tây An mượn cơ Huỳnh Đạo]
DẮT DÌU NAM TỬ KHOA TRÀNG DỰ THI..." [để dẫn môn đệ TKHĐ dự khoa tràng]
[Khoán: Sấm Ký Để Lời: Huỳnh Đạo Nhứt Thời Hoằng Khai, Hậu Lai Sẽ Rõ. Ta Mượn Thế Cơ Vàng Dắt Dìu Nam Tử Khoa Tràng Dự Thi.]
(Trích dẫn SẤM GIẢNG HẬU GIANG, đàn cơ ngày 15 tháng 6 năm Ất Tỵ (13/7/1965), Thiên Khai Huỳnh Đạo. Truy cập: https://onglaidoky3.com/p322a33/sam-giang-hau-giang)
Hai câu cuối rõ ràng khẳng định THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO khai mở vào thập niên 1960s (năm 1962) tại Việt Nam cũng là "cơ mượn" để "tạm mở" tôn giáo này "dắt dìu nam tử khoa tràng dự thi". Xin thưa là để "dự thi" chớ không phải để "chấm thi". Còn THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA là cơ vàng của Giáo Tôn HUYỀN THIÊN DI LẠC mở ra để GIÁO dân độ thế buổi ngươn tàn, HỘI Thiên Long Thiên Hoa quy trào nhận nhiệm vụ hộ cơ nguy, mở TRƯỜNG chấm thi tuyển lựa kẻ Đức tài phụng sự Thánh Đức. Công việc "GIÁO, HỘI, TRƯỜNG" này diễn ra song song tại thế gian hữu hình và trong thế giới vô hình, đúng với câu "DI vì thánh lịnh của TRỜI ban, LẠC hội công đồng tại thế gian." (Trích dẫn CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 8 năm Canh Tý (8/10/1960), Ngũ Phụng Kỳ Sơn, Thiên Khai Huỳnh Đạo). [Chú giải của người soạn.]
Tóm lại, về mặt triển hiện các cơ kỳ của ĐẠI ĐẠO theo ý chỉ từ Đài Cao Huyền Không Chí Thượng thì THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA (hậu xuất đầu Thượng Ngươn) chính là cơ kỳ tiếp nối THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO khai mở năm xưa (tiền xuất cuối Hạ Ngươn), và trước đó nữa là tiếp nối CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ khai mở đầu thời kỳ PHỔ ĐỘ, làm thành "Thiên Khai nhứt mạch". Đức Chí Tôn và Cộng Đồng Tam Giáo Thánh Tòa cũng đã định sẵn là "Cao Đài thông truyền, Huỳnh Đạo Thiên Khai tiền ẩn hậu xuất", mà còn là "hậu xuất tại Hoa Kỳ" để thực hiện cơ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO tại trời Tây, chính xác là tại Nam California của Hoa Kỳ, đúng sát với "lập trình" như đoạn sấm ký quen thuộc này của Cao Đài đã huyền khải từ lâu: [Chú giải của người soạn.]
"TIỀN ẨN ĐẠI DANH CAO BẮC KHUYẾT
HẬU XUẤT HOA [KỲ] KHAI ĐÀI THÔNG TRUYỀN
HUỲNH ĐẠO PHỔ DƯƠNG ĐỒNG BÁT QUÁI
THIÊN KHAI NHỨT MẠCH THÁI BÌNH YÊN."
[Khoán: Cao Đài Thông Truyền, Tiền Ẩn Hậu Xuất Thiên Khai Nhứt Mạch.]
(Trích dẫn trong NGUYÊN NHÂN ĐẠI ĐẠO, Đệ Thứ Nhất, Diệu Minh Bảo Pháp Di Lạc Chơn Kinh, đàn cơ cuối năm Quý Hợi 1983, Thiên Lý Bửu Tòa, Thiên Khai Huỳnh Đạo.)
Đến đây xin phép được mở ngoặc giải thích vài "thuật ngữ" được sử dụng trong tập sấm ký này. Thứ nhứt là sự khác biệt giữa hai từ TIÊN TRI và HUYỀN KHẢI. Tiên tri là những sự việc được báo trước với một xác xuất nào đó, tức là chưa chắc sẽ xảy ra. Chính vì tiên tri còn tùy thuộc cho nên Đức Huỳnh Giáo Chủ của Hòa Hảo mới nói "Ta dừng lại chờ đợi Lịnh Thiên, chờ Ngọc Đế phán phân cho thế" sau khi đã đưa ra những lời tiên tri của mình. Còn huyền khải là sự việc nhất định phải xảy ra. Mượn văn đời để nói, tiên tri chỉ mới là kế hoạch dự thảo chưa được "xếp lớn" ký tên đóng dấu còn huyền khải đã là lập trình đã được "xếp lớn" ký tên đóng dấu và chắc chắn cấp dưới phải triển khai. Thứ hai là từ KHOÁN. Khoán là "ký gởi một thông điệp" vào một khổ đạo thi hay sấm ký hay thánh giáo, bên cạnh phần chính văn hiển nhiên. Trong thi pháp xưa, đặc biệt là đạo thi, thường thấy lối khóan thủ (chữ đầu tiên trong mỗi câu và đọc từ trên xuống), khoán yêu (chữ giữa câu) và khoán vĩ (chữ cuối câu). Sau này có rất nhiều cách khoán khác thí dụ như khoán hình chữ L, chữ L úp, chữ U, chữ U ngang hay khoán ma trận và khoán tự do. Những cách khoán mới này được dùng khá nhiều để "mã hóa" những thông điệp và làm cho người đọc bình thường khó nhận ra. Giải mã chính xác là việc của những người "có điển huệ linh chiếu" và "có sứ mệnh giải mã". Chỉ cậy vào học lực và mớ "tri thức thế gian" thì e rằng không được đúng, nếu không muốn nói thường là sai ngàn dậm. [Chú giải của người soạn.]
3. SẤM KÝ THỜI KỲ LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN
Vào ngày Rằm tháng Giêng năm Ất Hợi, ngày Giáp Tí tháng Mậu Dần âm dương lịch tức ngày 17 tháng 2 năm 1935, một mật đàn kéo dài ba ngày đã diễn ra nơi cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên thuộc tỉnh Hà Tiên của miền Nam Việt Nam. Nội dung của Tam Nhật Đàn này chứa đựng những thông điệp vô cùng quan trọng liên quan đến CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ đương thời và CAO ĐÀI VÔ VI KỲ BA TRÀO TAM XUẤT THẾ trong tương lai. Nội dung của mật đàn này đã không được phép công bố trong suốt một thời gian dài gần 3/4 thế kỷ theo chỉ thị của Thượng Đế. [Chú giải của người soạn.]
Trong đàn cơ này, Đấng Chí Tôn đã giáng đàn để "minh chơn lý" và "lập văn tự làm chứng cứ" cho nhơn sanh ngày sau thấy rõ mà tin theo rằng CAO ĐÀI VÔ VI KỲ BA TRÀO TAM XUẤT THẾ hay THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA đã được "lên kế hoạch" và nhất định "sẽ tới" vào một thời điểm đã được "định trước". Cao Đài Tiên Ông đã chỉ thị cho cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên của Đạo Cao Đài rằng họ chỉ được phép phổ biến nội dung của Tam Nhật Đàn này khi đến đúng thời điểm căn dặn. [Chú giải của người soạn.]
Lúc đó, năm 1935, Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ chỉ mới thành hình trên dưới 10 năm. Và thời điểm mà Đức Chí Tôn đã căn dặn "chỉ cho phép phổ biến" nội dung mật đàn khi mà "Trung Đông chiến họa, lưỡng dân điêu tàn" và "đời đạo đều hỗn loạn". Thời điểm được tiên khải ứng vào vào năm 2001 trở về sau và hoàn cảnh được tiên khải chính là từ sau sự kiện 9/11 làm sụp đổ hai tòa cao ốc Trung Tâm Mậu Dịch Quốc Tế tại New York, dẫn đến quyết định Hoa Kỳ xâm lăng Iraq năm 2003, rồi kéo dài hơn hai thập niên "chiến họa" khắp Trung Đông, đưa đến tình trạng "lưỡng dân điêu tàn" của hai khối dân Sunni và Shia trên xứ sở Iraq và khắp Trung Đông vì bị cuốn vào vòng xoáy "đời đạo hỗn loạn". Một huyền khải đã ứng hiện và không thể phản bát! Văn bản Tam Nhật Đàn đánh máy quay roneno có đóng dấu xác nhận nội dung được ghi chép vẫn còn đang lưu trữ tại Bát Quái Đồ Thiên. Truy cập tư liệu tại: https://onglaidoky3.com/p322a338/tam-nhat-dan. [Chú giải của người soạn.]
Lật lại từng trang sấm ký sẽ cho chúng ta một cái nhìn thấu đáo hơn về CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC của Đức Chí Tôn. Tuy nhiên vì giới hạn thời gian và chủ đề cho nên người soạn văn bản này chỉ xin phép được rút ra một số đoạn mà Đức Chí Tôn đã huyền khải những điều quan trọng trong suốt "ba ngày mật đàn" này để làm khung giúp cho chúng ta thấu hiểu một cách chính xác hơn những diễn biến của cơ thiên về sau. [Chú giải của người soạn.]
"Ngày kia, tại xứ VIỆT NAM, Trời lập BÁT MÔN ĐỒ TRẬN có 8 cửa: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Hào quang sáng chói nửa lừng trời thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang, sang phá trận cho tiêu tàn, giành làm bá chủ. Trận Bát Môn của Trời lập, chính là THIÊN MÔN TRẬN người tu một ngàn năm vào trận khó ra. Thiên Môn Trận thâu hồi bá đạo vào Bảng Phong Thần, đó là Phong Thần thăng Bảng Kỳ Ba đó các con! Như vậy thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo sang phá trận đều bị tiêu diệt, hồn lên Bảng Phong Thần hết cả. Vậy thì bá đạo không phá nổi đồ trận của Thầy. Thầy mới thống nhất mà Giáo Truyền Đại Đạo khắp cả thế giới năm châu vũ trụ, chẳng phải truyền [các mối] đạo ngày hôm nay đó các con!" (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 5.)
"Ngày hôm nay [1935] THẦY GIÁO ĐẠO để biểu hiệu CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ là [để] độ các con lập công giải thoát cho kịp kỳ tận thế này nên THẦY GIÁNG ĐẠO CHƯA KHAI GIÁO. Đến CƠ PHỔ ĐỘ HỮU HÌNH TIÊU HOẠI HẾT rồi thì chỉ còn lại những đạo tâm hữu căn hữu phước anh tài tuấn kiệt THẦY MỚI KHAI GIÁO KỲ BA thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần HOÁT KHAI HUỲNH ĐẠO LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN, thì chừng đó HUỲNH ĐẠO thâu hết những kẻ đắc pháp huyền hư cùng hiền tài tuấn kiệt mà dẹp loạn can qua hoàn cầu mới được.." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 5.)
"Đến ngày THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, đó là [lúc] KHAI GIÁO ĐẠO HUỲNH, thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần xuống thế mà thống nhất hòa bình, năm châu cùng vũ trụ, [rồi] Thầy mới đem BIỂU HIỆU CAO ĐÀI mà truyền lưu cõi thế, các con không thông căn Đạo, không tìm hiểu được Thiên Cơ, tưởng lầm CAO ĐÀI [TAM KỲ PHỔ ĐỘ] truyền đạo Năm Châu Thống Nhất hoàn cầu. Chưa được! Vì Cao Đài [Tam Kỳ Phổ Độ] là cơ hữu hình đâu có Phật Thánh Tiên mà thống nhất, đâu có Phật Thánh Tiên mà lập Bát Môn Đồ Trận. (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 5.)
"... cho nên CAO ĐÀI là CƠ PHỔ ĐỘ không có lập đời. Còn lập đời là HUỲNH ĐẠO, là CƠ VÔ VI, là Phật Thánh Tiên xuống thế lập đời mới được..." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 6.)
"CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ là [cho] hôm nay [1935]. Cuối Hạ Ngươn đời tận thế là [lúc] tận diệt loài người năm châu cùng là vũ trụ [sẽ chỉ] còn lại kẻ hữu căn hữu đức đặng lập đời trở lại Thượng Ngươn, thì Luật Trời định [là] GIÁO [TÔN] ĐẠO HUỲNH [sẽ] XUỐNG THẾ độ kẻ hữu căn LẬP ĐỜI [chớ] không có phổ độ [nữa]. Hôm nay TẠO HÓA GIÁNG ĐẠO tại xứ Việt Nam. Thầy vâng lịnh đầu thai xuống thế độ kẻ hữu căn lập đời Thượng Ngươn trở lại, y lịnh của Tạo Hóa, cũng không có phổ độ. Phổ độ là do Thầy quá thương các con là nòi giống của Thầy [sẽ] bị Luật Trời tận diệt hết chẳng còn nên Thầy hoài tâm cùng Tạo Hóa nhiều lần mà xin xá tội các con, cũng xin cho Thầy độ hết các con về cùng Thầy (không nỡ bỏ). Vì vậy nên Thầy tá danh CAO ĐÀI PHỔ ĐỘ, Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Chính thiệt là KỲ NÀY LẬP ĐỜI chớ KHÔNG CÓ PHỔ ĐỘ. Phổ độ đây là phần riêng của Thầy độ các con đó thôi. Nếu kỳ này Thầy không độ các con lập công giải thoát thì các con [sẽ] bị Luật Trời tiêu diệt hết chẳng còn." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 16.)
"... kẻ HỮU ĐỨC là kẻ có CÔNG TU KIẾP TRƯỚC. Buổi cuối Hạ Ngươn, đời tận thế Hội Long Hoa thì KẺ HỮU CĂN ĐƯỢC TIẾP LUỒNG ĐIỂN THIÊN tu hành hết trước ngày Thầy giáo Đạo Cao Đài này sẽ thấy đắc quả Phật Thánh Tiên. Còn người được đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ, TIẾP ĐIỂN VỚI THẦY, NGHE THẦY CHỈ DẠY, những kẻ đó hiện giờ (tức buổi cuối hạ ngươn) làm phận sự của Thầy [giao phó], HÀNH ĐẠO KỲ BA VÔ VI, đi thống nhất Triệt Giáo hoàn cầu mà THÀNH LẬP ĐẠO THẦY, thì những kẻ đó hiện giờ (tức buổi cuối hạ ngươn) tiếp điển với Thầy mà THÔNG HIỂU ĐƯỢC CĂN CỘI NGUỒN GỐC ĐẠO THẦY TỪ THƯỢNG GIỚI ĐẾN HỮU HÌNH THẾ GIAN, không cần Thầy nói giống như Thầy nói cho các con biết đây." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 17.)
"Vì vậy khi Thầy ngự Bạch Ngọc Kinh chầu Thượng Đế thấy Luật Trời xoay chuyển cận ngày tạo Thiên lập Địa, thay quả Địa Cầu, thay bầu trái đất, nhân vật cỏ cây đều thay đổi cả, đó là Ngũ Hành thâu loài người cùng vật chất đó các con, vì vậy Thầy gấp gấp mau mau GIÁNG ĐẠO Kỳ Ba, ngày mùng Một tháng Giêng năm Bính Dần [1926], Thầy dùng huyền diệu cơ bút khắp nơi mà kêu réo các con mau quay đầu tỉnh ngộ mà theo Đạo Cao Đài [rồi nhờ] có Tổ Tiên ủng hộ mà giải thoát hay là xác thịt còn sống được [đặng] Thầy độ [tới kỳ] lập đời Tân Dân Thánh Đức." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 17.)
"Đó là hữu hình, rồi đây tiêu hoại hết, nhưng đó là kế hoạch của Thầy triệu những kẻ căn Đời vào Đạo đó thôi. Còn THIỆT CỦA THẦY LÀ KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI, còn KỲ PHỔ ĐỘ TIÊU DIỆT HẾT RỒI. Còn lại những kẻ Đạo tâm hữu căn hữu đức sống đúng Luật của Thầy [thì] Thầy mới độ dẫn qua Kỳ Ba Vô Vi, đặng lập Đời. Vì Luật Trời định vậy NÊN CƠ PHỔ ĐỘ PHẢI BỊ TIÊU DIỆT THEO NHÂN SANH, đặng chọn kẻ Đạo tâm, đặng lập Đời, không một kẻ nào thoát khỏi vòng hỗn loạn binh đao cùng dịch chướng đó các con!" (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 19.)
"KỲ BA VÔ VI LÀ PHẬT THÁNH TIÊN XUỐNG THẾ LẬP ĐỜI nên Thầy chọn rặt những kẻ nguyên căn, còn kẻ hóa nhơn thì vớt hồn về quê cũ đó các con. Còn người hành phận sự kỳ ba của Thầy là những người đắc pháp huyền hư, lục thông pháp huệ, dùng thân cảm, tưởng mà tiếp điển với Thầy hành phận sự vô vi. Những người đó hiện giờ không có lãnh phận sự lập công trong cơ Phổ Độ. Vì cơ Phổ Độ của Thầy [là để] độ những kẻ thiếu căn thiếu đức còn lại... CÒN NHỮNG KẺ ĐẮC PHÁP HUYỀN HƯ TIẾP ĐIỂN VỚI THẦY LÀ BỰC PHẬT THÁNH TIÊN TAM GIÁO XUỐNG TRẦN ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI ĐẶNG THAY THẦY HÀNH PHẬN SỰ Ở THẾ GIAN. Đắc pháp mà tiếp điển được với Thầy là ở trên Tam giáo xuống mới tiếp điển được với Thầy, còn ngoài ra không ai được hết, đó là [các] vị MINH SƯ Ở TRẦN THẾ." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 19.)
"Thầy minh ra cho các con biết rõ, những người phận sự của Thầy ở thế kêu là Minh Sư, nhưng CÒN MỘT BẬC SƯ ÔNG CÒN [ĐANG] ẨN. Những người phận sự của Thầy đều có Sắc Lệnh của Trời Ban trên TAM GIÁO XUỐNG TRẦN GAIN THAY MẶT CHO THẦY ĐẶNG DIỆT TÀ ĐỘ CHÁNH, đặng LẬP ĐỜI, chẳng phải là thường. NGƯỜI PHẬN SỰ CỦA THẦY ĐỦ QUYỀN THƯỞNG PHẠT THẾ GIAN, ĐỦ TÀI NĂNG THAO LƯỢC, PHÁP BỬU NHIỆM MẦU. Nếu người thay mặt cho Thầy không đủ tài năng thì làm sao thống nhất Triệt giáo hoàn cầu mà lập thành Đại Đạo đó các con? " (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 21.)
"Hiện giờ, NGƯỜI NHẬN PHẬN SỰ CHƯA TỚI, còn ẩn danh như Khương Tử, để KỲ BA CÁC CON THẤY RÕ NHIỆM MẦU HUYỀN DIỆU CỦA CÁC SƯ ÔNG. Các con đừng lầm tưởng các bậc Minh Sư ở ngoài cơ Phổ Độ không có vô lập công như các con, các con cho đó không phải là người Đạo Cao Đài là quá đổi quá dốt. Thầy cho biết: Đạo Cao Đài gồm hết những kẻ hữu căn hữu đức hùng anh tuấn kiệt, cùng các bậc Minh Sư ở [trên] toàn quốc Đất Việt đều chung lo tạo dựng Đạo Cao Đài." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 21.)
"Cơ lập công với Tạo Hóa, KỲ HỘI LONG HOA TẬN THẾ có nhiều BẬC TAM GIÁO HẠ TRẦN ĐẦU THAI MƯỢN XÁC LÀM NGƯỜI LẬP CÔNG KỲ BA VÔ VI, dựng nước khai non, thống nhất Triệt Giáo, thành lập Đạo Thầy. [Họ là] bậc thiện căn, hữu đức không ham mê vật chất quyền danh." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 21.)
"Phán Đoán Đại Đồng, là ngày Luật Trời thưởng phạt loài người, tận diệt khắp cả thế gian hoàn cầu cùng Vũ trụ thì không còn một chéo đất nào ở thế gian còn nguyên vẹn. Chừng đó Thầy cho chư Thần độ xác những kẻ hữu căn hữu đức, độ xác những anh hùng tuấn kiệt đạo tâm ẩn nơi Thánh Địa đem về non đảnh là nơi Huyền Linh Thiên định trước giờ ở yên nơi đó, chờ ngày THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO TAM GIÁO GIÁNG TRẦN thâu những kẻ đạo tâm hùng anh tuấn kiệt mà hữu dụng [vào lúc] KỲ BA LẬP ĐỜI KHAI NON DỰNG NƯỚC đó các con." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 22.)
"Đàn hôm nay [1935] là Tam Nhật Đàn. Đàn của Thầy minh chơn lý là Minh Sư thiệt của Đạo, để cho các con sau này coi biết rõ sự thật từ cơ PHỔ ĐỘ HỮU HÌNH cho tới KỲ BA VÔ VI LẬP ĐỜI. Đó là Thầy cho biết rõ CĂN CỘI NGUỒN GỐC ĐẠO TRỜI (Thiên Đạo). Còn cơ Phổ Độ của Thầy mượn giả làm thiệt nên Thầy không cho biết sự thiệt, cho biết thì lậu cơ mưu độ các con sao được, chớ Thầy nào có muốn giấu." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 23.)
"Thầy dặn các con hãy nhớ, đến ngày hỗn loạn là cơ của Thầy bế tắc, là kỳ hữu hình đã mãn, sang qua kỳ vô vi là các con bít đường lối, không biết Đạo đi tới nữa là chi, CHỈ NHỮNG KẺ CÓ ĐIỂN QUANG QUÁN TƯỞNG TIẾP VỚI THẦY MỚI HIỂU THÔNG VIỆC... Các con hãy nhớ kỷ lời Thầy. Thánh giáo [của] Thầy [hãy] cất giữ, đời hỗn loạn mới được phép cho ra, bất tuân mệnh lệnh đại tội đó nghe con." (Trích dẫn TAM NHẬT ĐÀN, trang 26.)
Từ nội dung Tam Nhật Đàn, xuyên qua 15 đoạn trích dẫn trên, một bức tranh tổng thể rõ nét đến độ không thể diễn dịch sai lầm và không thể không tin, nhất là sau khi đối chiếu lại với những diễn biến trong ĐỜI & ĐẠO suốt một thế kỷ qua, Tam Nhật Đàn có thể nói đúng là một văn bản "lập ngôn làm bằng chứng" của Thượng Đế về toàn bộ CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA HUYỀN KHÔNG THIÊN THƯỢNG, từ khi bắt đầu "giáng Đạo" năm 1924 rồi hoằng khai CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ năm 1926 để phổ độ nhơn sanh đất Việt, rồi hoằng khai THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO năm 1962, là cơ kỳ tạm thời trong giai đoạn chờ đợi, tiếp theo là giai đoạn XUẤT LỘ CỦA TRÀO TAM đầu Thượng Ngươn do chính Thượng Đế cùng với chư vị Phật Thánh Tiên của Tam Giáo đã chiết thân đầu thai xuống trần ngay trên đất Việt để "khai Cơ" QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO năm 2017, rồi "giáng Đạo" với danh xưng GIÁO HỘI TRƯỜNG THIÊN để phổ truyền THIÊN ĐẠO HUYỀN KHÔNG, vẫn lấy biểu hiệu CAO ĐÀI với ý nghĩa "Đài Cao tột Huyền Không" cũng là "Ngôi Chí Tôn Chí Thượng", sau cùng là tiến tới "khai Giáo" năm 2024 với danh xưng CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ - THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA mở màn Thượng Ngươn đầu thời điểm LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN - THIẾT LẬP KỶ NGUYÊN DI LẠC. [Chú giải của người soạn.]
4. SẤM KÝ THƯỢNG ĐẾ HÓA THÂN BA LẦN XUỐNG THẾ, XUỐNG THẾ LẦN BA
Từ 15 đoạn sấm ký trên vừa trích dẫn trong Tam Nhật Đàn, chúng ta có thể rút ra được 6 huyền khải lớn:
1. CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ hoằng khai năm 1924 chỉ là bước khởi đầu trong LẬP TRÌNH CỦA THIÊN THƯỢNG nhằm phổ độ nhơn sanh Việt chưa được chấm là "hữu căn hữu đức". Đến THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO hoằng khai năm 1962 là cơ kỳ tạm thời trong giai đoạn chờ đợi. Nay, đầu thiên niên kỷ 2000, bước vào thời kỳ chuyển tiếp THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI, thời kỳ hoằng khai trên đất khách ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG hay còn gọi là THIÊN ĐẠO HUYỀN KHÔNG, để tuyển sĩ hiền chuẩn bị lập đời Thánh Đức Tân Dân. [Chú giải của người soạn.]
2. THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA bắt đầu vào khoảng thời điểm mà thế giới chứng kiến "Trung Đông chiến họa lưỡng dân điêu tàn" và "Ngòi lửa dậy bốn bề nao nức, năm châu tràn tuyệt dứt nhơn sanh". Cũng vào thời điểm đạo đời "đến ngày hỗn loạn đó các con bít đường lối không biết Đạo đi đến đâu nữa" ; "bá đạo ra tranh hùng, Triệt Giáo dùng tả đạo bàng môn mượn danh Tiên Phật mà độ giành người, cướp giật nhân sanh, làm nhiều điều tà thuật chóa mắt"; và đó là ngày mà "cơ Phổ Độ của Thầy đã mãn" để chuyển qua cơ THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. [Chú giải của người soạn.]
3. VÔ VI KỲ BA là một "cơ kỳ" trong sự vận hành của THIÊN ĐẠO, là ứng danh cho một giai đoạn diễn biến, qua đó công việc của các đấng Phật Thánh Tiên nhận lệnh Tam Giáo đầu thai xuống thế gian trong xác thân con người dưới trần để thực hiện chương trình LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN. Các "Phật Thánh Tiên tại trần" này sẽ không làm "công tác hoằng hóa hữu vi", như là của các tiền bối đã làm để "lập công bồi đức" trong cơ Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà chỉ "thực hiện sứ lệnh vô vi" trong cơ kỳ của THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA . [Chú giải của người soạn.]
4. Các "Phật Thánh Tiên tại trần" này là những "Thiên Nhân" tại thế, là những "Minh Sư " tự biết rõ "căn phận vô vi" của mình, lặng lẽ "tiếp điển" tu thân, sống giữa chợ đời ô trược, hành động như người tầm thường, cho đến khi đúng thời điểm "nhận sứ lệnh hành động" thì Thượng Thiên mới "khai mở bộ đầu" để họ "tự ráp nối" với "chơn linh của mình", "đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ" mà trở thành siêu phàm, hiểu rõ thiên cơ, tận tường chơn lý, "biết đường hành sự" khế hợp với trên Thiên. Điều này cũng được Thượng Đế xác lập thêm một lần nữa trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967: [Chú giải của người soạn.]
"GẦN ĐẾN LÚC MẬT TRUYỀN BIỆN PHÁP
CHO NHƠN HIỀN TỰ RÁP CHƠN LINH
NHỮNG CON ĐÚNG ĐẮN ĐIỂN HÌNH
QUI THÀNH YẾU LÝ SIÊU HÌNH GIÁNG NGAY."
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 42, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
5. Trong số những "Minh Sư " tại thế có các "Sư Ông" căn cơ rất cao trọng. Đàn cơ ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Sửu 1949, Hiệp Thiên Đài, Chiếu Minh Tam Thanh, ghi trong tập Đại Đạo Luận, cho biết là những Minh Sư và các Sư Ông vẫn chưa xuống thế, chỉ là cận ngày thôi. [Chú giải của người soạn.]
"ĐẠI HỘI LONG HOA ĐÃ CẬN RỒI
THÁNH THẦN TIÊN PHẬT SẮP LÌA NGÔI
TỀ AN BÁ TÁNH QUI KIM CỔ
THIÊN MẠNG PHỤNG HÀNH CHỚ THẢ TRÔI."
(Trích dẫn ĐẠI ĐẠO LUẬN, trang 11, Hiệp Thiên Đài, Chiếu Minh Tam Thanh 1949.)
Nhưng đến năm 1967, căn cứ theo lời Thầy Trời khải lộ trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo thì các Minh Sư và các Sư Ông này đã có mặt dưới trần. [Chú giải của người soạn.]
"PHẬT THÁNH THẦN TIÊN ĐÃ XUỐNG RỒI
CHỈ CHỜ GIỜ PHÚT ĐÚNG ĐI ĐÔI
GIANG SƠN ĐẤT VIỆT LUÔN TÀI ĐẤP
ĐẤT NƯỚC NHÀ NAM SẴN ĐỨC BỒI."
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 3, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Như vậy, dựa vào hai mốc thời gian lúc hai sấm ký xuất thế thì có thể đoán ra là những Minh Sư và các Sư Ông đã hạ sinh trong khoảng thời gian 1949-1967. Tính đến hôm nay, năm 2025, thì các vị này đang ở độ tuổi trẻ nhất là 52 tuổi và cao niên nhất là 76 tuổi. [Chú giải của người soạn.]
6. Thượng Đế đã nhiều lần huyền khải sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam. Trích dẫn Ngọc Kinh của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967, thì Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chiết linh quang hóa thân xuống thế Giáo Đạo Nam Phương để độ con phàm; là vị Đế Chúa (Chúa Thánh Bạch Ngọc Cung) xuất sinh tại Nam Bang để duyệt phẩm hàm (sắc phong cho chư thánh); là vị "Sư Ông Cao Đại" còn đang ẩn và sẽ có lúc ẩn trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (Ngọc ẩn Kỳ Sơn). Vì cơ THIÊN ĐẠO đã định rồi nên Sư Ông Cao Đại "dạ phải cam", phải chờ cho đến đúng ngày giờ thì Đức Ngài mới lộ diện: [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC ẨN KỲ SƠN, XUẤT TẠI NAM [VIỆT]
HOÀNG GIA XUỐNG THẾ ĐỘ CON PHÀM
THƯỢNG KHAI CƠ ĐẠO VĂN THIÊN ĐỊNH
ĐẾ XUẤT NAM BANG DUYỆT PHẨM HÀM
GIÁO HÓA CON THƠ HÀNH CHÁNH PHÁP
ĐẠO MẦU HUẤN LUYỆN SẮC GIÀ LAM
NAM KỲ ĐẾ CHÚA CÒN IM ẨN
PHƯƠNG HƯỚNG ĐỊNH RỒI DẠ PHẢI CAM."
[Khoán thủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế Giáo Đạo Nam Phương.]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 39, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Đoạn sấm ký trên, ra đời vào thời điểm 1967, chắc chắn là huyền khải về Ngôi Hai Trào Tam vì Ngôi Hai Trào Một Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu (1878-1932) và Ngôi Hai Trào Hai Võ Văn Phẩm (1888-1940) đã xuất lộ trong thời kỳ Cao Đài Phổ Độ và đã trở về thiên ngôi từ lâu rồi, còn nội dung huyền khải năm này thì cho biết là Đức Ngài đang có mặt, đang ẩn và sẽ lộ diện trong tương lai. [Chú giải của người soạn.]
Như vậy, đã rõ ràng vị "Sư Ông Cao Đại Nhất" trong các Sư Ông chính là Ngôi Hai Trào Tam. Đức Ngài đang có mặt tại thế trần. Như lời Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu Ngôi Hai Trào Một đã khải lộ trong đàn cơ của Tân Chiếu Minh tại Âu Châu năm Kỷ Mão 1999 (đàn cơ dạy đạo cho hiền huynh Quyền Pháp) là "Thầy lâm phàm rồi!" Thầy Thượng Đế lâm phàm thì được người đạo Cao Đài tôn xưng là Ngôi Hai. Lâm phàm khai đạo lập giáo lần thứ ba thì gọi đó là Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
"HẠ NGƯƠN HẦU MÃN THẦY LÂM PHÀM RỒI!
THẦY LÂM PHÀM CỨU ĐỜI NGÀY CUỐI
VỚT NGUYÊN CĂN TRONG BUỔI HẠ NGƯƠN
LOAN TRUYỀN ĐẠO PHÁP CHÁNH CHƠN...
NGÀY MẠT HẬU NGÔI HAI TÁ THẾ
MỞ CƠ MẦU LÀ ĐỂ LẬP ĐỜI
LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN
ĐỘ HỒN CHỦNG LOẠI, NGƯỜI NGƯỜI THÀNH TIÊN."
[Khoán: Thầy Lâm Phàm Rồi! Thầy Lâm Phàm Cứu Đời Ngày Cuối. Ngôi Hai Tá Thế Mở Cơ Mầu Là Để Lập Đời Thánh Đức Tân Dân.]
(Trích dẫn đàn cơ giờ Sửu ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão (22/11/1999), tại thánh đàn của Quyền Pháp, Âu Châu, Ngôi Hai Ngô Minh Chiếu giáng.)
Thầy "lâm phàm rồi". Thầy lâm phàm để "vớt nguyên căn", để "loan truyền đạo chánh pháp chơn". Thầy lâm phàm tá thế là Ngôi Hai Trào Tam, để "mở cơ mầu", để "lập đời Thánh Đức Tân Dân", để "độ hồn chủng loại", để "người người thành Tiên". Vinh diệu thay! "Các người hãy đem "Tin Lành" này mà rao giảng khắp thế gian!" Xin phép được mượn lời Thánh Chúa Jesus Christ năm xưa. [Chú giải của người soạn.]
Sấm ký trong kinh Bình Minh Đệ Tam năm Canh Tuất 1970 của Cao Đài Thống Nhứt cũng huyền khải sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam: "Ngọc Hoàng Thượng Đế, Kim Viết Cao Đài, Giáo Đạo Nam Phương, Hạ Thế Kỳ Tam." [Chú giải của người soạn.]
“NGỌC SẮC HOÀNG CUNG ĐÃ XUẤT HÌNH
THƯỢNG TRIỀU ĐẾ NGỰ TẢ BÌNH MINH
KIM MÔN VIẾT LUẬN QUYỀN THIÊN HẠ
CAO KHẢI ĐÀI DANH CHUYỂN THẾ TÌNH
GIÁO HUẤN ĐẠO MẦU XÂY THÁNH ĐỨC
NAM BANG PHƯƠNG HƯỚNG DỰNG TOÀN LINH
HẠ NGƯƠN THẾ HỆ DÂN VI THIỆN
KỲ MẠT TAM TÒA HỘI CHÚNG SINH”
[Khoán cột 1 + cột 3: Ngọc Hoàng Thượng Đế, Kim Viết Cao Đài, Giáo Đạo Nam Phương, Hạ Thế Kỳ Tam.]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), đồng tử Kim Quang tiếp điển, của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt.)
Đức Ngài đang có mặt dưới thế vì "Ngọc sắc Hoàng cung đã xuất hình, Bạch Ngọc ly cung tá thế trần" với mục đích là để "chuyển thế tình xây Thánh Đức", để "dựng toàn linh dân vi thiện", để "hội chúng sinh". [Chú giải của người soạn.]
BÌNH MINH ĐỆ TAM giải theo bạch văn thì ý nghĩa là quyển kinh tên Bình Minh cuốn thứ ba. Nhưng giải theo ẩn ngữ của sấm ký thì nó hàm một nghĩa khác. BÌNH MINH nghĩa là trời sáng, tiếng hán việt là minh thiên. Cho nên nói BÌNH MINH ĐỆ TAM là nói MINH THIÊN TRÀO TAM. Minh Thiên là tôn danh dưới thế của Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. Nói TẢ BÌNH MINH là nói MÔ TẢ MINH THIÊN. Mô tả gì? Mô tả "quyền thiên hạ" (nắm quyền dưới thế). Mô tả sứ mạng kỳ ba của Đức Ngài là "chuyển thế tình xây [nền] Thánh Đức, [phục] dựng toàn linh [khiến] dân vi thiện, hội chúng sinh [lập Long Hoa Hội]". [Chú giải của người soạn.]
NGỌC CHIẾU HÀO QUANG BUỔI THẾ TÀN [Thượng Đế xuống thế buổi Hạ Ngươn]
HOÀNG KHAI ĐẠO PHÁP CÕI NAM BANG [khai nền Đại Đạo trên đất nước Việt Nam]
THƯỢNG NGƯƠN TÁI TẠO XÂY NỀN MÓNG [xây lại nền móng buổi Ngươn Thượng]
ĐẾ CHUYỂN KỲ TAM THẢ BÁCH THOÀN [chuyển sanh Kỳ Ba thả vô số đạo thuyền]
TÁ BÚT TẢ BÌNH MINH THỐNG HỘI [nói cho biết rõ do Minh Thiên thống hội]
DANH LƯU THẤT ỨC TẠI TRẦN GIAN [danh lưu 700 ngàn năm tại thế gian]
CAO MINH PHỔ HÓA DÂN VI THIỆN [Minh Thiên phổ hóa Cao Đài độ dân quy thiện]
ĐÀI CHUYỂN CĂN CƠ LẬP NIẾT BÀN. [Bạch Ngọc Đài chuyển bậc căn cơ lập Niết Bàn.]
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tá Danh Cao Đài. Buổi Thế Tàn, Cõi Nam Bang, Xây Nền Móng, Kỳ Tam Thả Bách Thoàn, Bình Minh Thống Hội, Thất Ức Tại Trần Gian, Phổ Hóa Dân Vi Thiện, Căn Cơ Lập Niết Bàn.]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 6 tháng 8 năm Canh-Tuất (6-9-1970), pháp đàn Huệ Chiếu Quang, đồng tử Huệ Linh Thông, Văn Phòng Đại Đạo, Cao Đài Thống Nhứt.)
TẢ BÌNH MINH THỐNG HỘI là diễn tả cảnh tượng Minh Thiên thống hội Kỳ Tam. Thời kỳ đó Đức Ngài sẽ thả vô số đạo thuyền của các Phật Thánh Tiên từ Tam Giáo Tòa xuống thế để phò trợ. Đức Ngài mang nền Đạo Pháp nước nhà (VN) khai mở trên đất Tây Phương hóa độ nhân loài quy thiện. Đức Ngài xuống thế gian để thiết lập Niết Bàn tại thế và sẽ thành tựu mục tiêu này trong bảy ức niên (bảy trăm ngàn năm). Nếu vẫn chưa mường tượng được một danh xưng khác "rất đậm màu sắc Phật Giáo" của Đức Ngài thì vài đoạn sấm ký dưới đây sẽ khải lộ rõ hơn. [Chú giải của người soạn.]
“VÂNG THƯỢNG ĐẾ HUYỀN THIÊN MANG HIỆU [vâng lệnh Thượng Đế hiệu Huyền Thiên]
THỌ SẮC TRỜI HIỆU TRIỆU LINH CĂN [thọ sắc chỉ của Trời hiệu triệu linh căn]
QUYỂN BA KINH NGỌC LẬP VĂN [lập văn làm chứng cứ cho màn ba của Bạch Ngọc Kinh]
KHI ĐỜI ĐẠI CHIẾN CHỚP GIĂNG HOÀN CẦU [khi đời đại chiến chớp giăng khắp hoàn cầu]
TAM THẬP LỤC LUÂN CHÂU GIÁNG THẾ. [36 vị Luân Châu sẽ xuống thế]
CHIẾT LẦN BA CHUYỂN THỂ, NGỌC HOÀNG [Ngọc Đế chiết linh quang hóa sanh lần thứ ba]
HIỆN THÂN DI LẠC TRẦN GIAN, [hiện thân dưới thế là Đức Di Lạc]
PHẬT VƯƠNG LÀ HIỆU MINH HOÀNG LÀ DANH. [hiệu là Phật Vương danh là Minh Hoàng]
THẦY LÃNH LỆNH XUỐNG MIỀN DƯƠNG THẾ [Thầy Trời lãnh lệnh xuống miền thế gian]
CHỜ ĐẾN NGÀY KHÁNH TỂ TRIỀU BAN [chờ cho đến ngày khánh tể triều ban]
ĐẦU THẦY ĐỘI NẶNG THIÊN HOÀNG [trên đầu luôn có Thiên Hoàng kết nối]
VAI MANG DƯƠNG THẾ VAI QUÀNG KINH LUÂN." [một thân đời đạo hai tay ôm quàng]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3: DI LẠC CHỦ NGƯƠN, trang 34, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Chữ QUYỂN 捲 có nghĩa là cuốn rèm (kéo màn). QUYỂN BA NGỌC KINH LẬP VĂN theo bạch văn chỉ là quyển Ngọc Kinh Ba lập văn làm chứng cứ, nhưng hàm nghĩa sấm ký thì nó là "lập văn cho biết lúc Bạch Ngọc Kinh kéo màn diễn lần ba" hay nói cách khác "lập văn cho biết màn ba của Bạch Ngọc Kinh". Cho biết gì? Cho biết 36 vị Luân Châu sẽ giáng thế theo lệnh của Huyền Thiên Thượng Đế và chính Thượng Đế Huyền Thiên cũng chiết linh quang hóa thân xuống thế (chuyển thể hình) lần ba. Dưới thế Đức Ngài hiệu là DI LẠC PHẬT VƯƠNG, danh là MINH HOÀNG. Dưới thế Đức Ngài vừa phải lo đời vừa phải lo Đạo (vai mang dương thế vai quàng kinh luân). [Chú giải của người soạn.]
Đức Phật Thầy Tây An cũng khải lộ Bắc Đẩu Huyền Thiên tức Huyền Thiên Thượng Đế đã hóa thân xuống thế tại vùng Nam Việt rồi.
“KÌA HƯỚNG BẮC CHÒM SAO ĐẨU TINH ĐÀ ỨNG LỘ [Bắc Đẩu Tinh nay đà xuống thế]
XẸT VÀO NAM KHẮP CHỖ ÁNH HÀO QUANG [hóa sanh vào Nam Việt hào quang chiếu khắp]
CHIẾU TƯỜNG VÂN NGŨ SẮC KHẮP NAM BANG.” [mây lành ngũ sắc tỏa trùm Nam Bang]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM, tả kinh vào ngày 11 tháng 2 Tân Hợi (6-3-1971), do đồng tử Huỳnh Hoa tiếp điển, Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt.)
Từ ngày CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO khai mở đến nay đã tròn một thế kỷ, biết bao huyền khải trong Tam Nhật Đàn đã thành hiện thực, và trong các sấm ký khác cũng đã ứng hiện. THIÊN CƠ thật là ảo diệu! Hồng ân của THƯỢNG ĐẾ thật là không thể nghĩ bàn! Đúng thật là cảnh tượng: [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC CHIẾU ĐIỂN QUANG KHẮP CÕI TRẦN [điển quang Ngọc Đế bố khắp cõi trần]
HOÀNG KHAI THIÊN ĐẠO LẬP TÂN DÂN [Hoàng Thiên khai Thiên Đạo để lập hội Tân Dân]
THƯỢNG TRUNG HẠ TRÍ TẦM CHƠN PHÁP [thượng trung hạ trí đều có thể tầm chơn pháp]
ĐẾ NGỰ ĐÀI SEN CỬ BÚT THẦN [Minh Đế ngự đài sen nâng bút thần hoằng hóa chúng]
TÁ THẾ NAM BANG MINH ĐỨC HIỆN [tái sinh lần ba tại Nam Việt đấng Minh Đức hiện thân]
DANH LƯU THẤT ỨC VỚI TOÀN DÂN [700 ngàn năm dài lưu danh với toàn nhân loại]
CAO ĐIỀU TÁI TẠO KỲ NGƯƠN THƯỢNG [Thiên Điều Cao Đài tái tạo kỳ thượng ngươn này]
ĐÀI CHƯỞNG LINH CĂN THOÁT KHỔ TRẦN." [Bạch Ngọc Đài chủ trì linh căn thoát trần khổ]
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tá Danh Cao Đài.]
(Trích dẫn KINH BÌNH MINH ĐỆ NHỊ. Văn Phòng Đại Đạo, Cao Đài Thống Nhứt. Đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Kỷ Dậu (29/6/1969), pháp đàn Mỹ Thông, đồng tử Bạch Hoa.)
"TIẾNG QUANG CỬU KHIẾU THỊ CAO NHÂN [Cửu Quang cả tiếng gọi cao nhân]
BẠCH NGỌC LY CUNG TÁ THẾ TRẦN [Ngọc Đế lìa Bạch Cung hóa thân xuống thế trần]
THƯỢNG ĐẲNG TAM KỲ KHAI THÁNH THỂ [khai Thánh Thể Lần Ba, thượng đẳng hay]
TRUNG THỪA HẠ PHẨM HÓA HOẰNG ÂN [trung thừa hạ phẩm đều thọ ân hoằng hóa]
TRIÊU VĂN Ư ĐẠO TẦM CHƠN LÝ [nghe được đạo pháp phải tầm học chơn lý cao siêu]
TỊCH VÃNG ÂM PHÙ PHẾ NHỤC NHÂN [để lúc hết thọ mạng bỏ xác thân phàm rồi]
TỨC KIẾN LIÊN ĐÀI LINH ĐIỂN NGỰ [thì tức khắc sẽ thấy đài sen linh điển ngự]
TẠI TIỀN CỔ PHÚC PHỤC TÂN DÂN." [lúc còn tại thế thì vỗ bụng no cơm vui phận Tân Dân]
[Khoán: Bạch Ngọc Ly Cung Tá Thế Trần Tam Kỳ Khai Thánh Thể.]
(Trích dẫn kinh BÌNH MINH ĐỆ TAM. Văn Phòng Đại Đạo, Cao Đài Thống Nhứt. Đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), đồng tử Kim Quang, pháp đàn Huệ Chiếu.)
TRIÊU VĂN Ư ĐẠO lấy từ câu trong Luận Ngữ "Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ" (sáng nghe được đạo tối có chết cũng không ân hận). CỔ PHÚC lấy từ câu nói của Trang Tử "Hàm bộ nhi hi, cổ phúc nhi di" (ngậm cơm mà vui, vỗ bụng rong chơi). CỬU QUANG là ám chỉ Thái Linh Cửu Quang Qui Sơn Kim Mẫu, là một danh hiệu khác mà thế gian tôn xưng Đức Tây Vương Mẫu. BẠCH NGỌC LY CUNG TÁ THẾ TRẦN KHAI THÁNH THỂ KỲ TAM khải lộ Chúa Thánh đã rời Bạch Ngọc Cung xuống thế khai Thánh Thể Lần Ba. Hai chữ Thánh Thể hàm hai ý. Ý thứ nhất là nói nhân thân của Đức Ngài. Ý thứ hai là nói Hội Thánh của Đức Ngài. [Chú giải của người soạn.]
4. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, ĐẠI NGHĨA MINH THIÊN
Có rất nhiều sấm ký đã huyền khải sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam. Văn bản của đàn cơ Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967 ghi:
"ĐÃ TUYÊN BỐ MỘT LỜI: THƯỢNG ĐẾ [đã một lời tuyên bố rằng]
QUYẾT XUỐNG TRẦN CỨU THẾ KỲ BA [Thượng Đế quyết xuống trần lần ba cứu thế]
PHƠI BÀY CHÍ ĐỨC VỊ THA [phơi bày chí đức]
CÔNG BÌNH BÁC ÁI ĐEM RA KHỎA LÒNG." [vị tha, công bình, bác ái đem ra khỏa lòng]
[Khoán: Thượng Đế Quyết Xuống Trần Cứu Thế Kỳ Ba.]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 7, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
KỲ BA đôi khi được hiểu là kỳ Hạ Ngươn trong tam ngươn. Nhưng trong các sấm ký thường thì chữ "Kỳ Ba" hay "Kỳ Tam" hay "Trào Tam" hay "Quyển Ba" (màn Ba) là nói về "lần thứ ba" xuống thế của Ngọc Đế. Còn nói TAM KỲ thì nên hiểu là "3 kỳ" xuống thế của Đế Bạch Ngọc Cung. Tuy phân định KỲ BA với BA KỲ nhưng khi nói "ba kỳ xuống thế" thì cũng đã bao hàm "xuống thế kỳ ba" rồi. Chỉ khi nói TAM KỲ PHỔ ĐỘ thì mới là nói ba kỳ phổ độ; Nhiên Đăng Cổ Phật thời nhứt kỳ phổ độ, Thích Ca Mâu Ni thời nhị kỳ phổ độ, Cao Đài Tiên Ông thời tam kỳ phổ độ, còn Di Lạc Phật Vương là thời Huỳnh Đạo lập đời Thánh Đức Tân Dân. [Chú giải của người soạn.]
Trích dẫn SÁCH TRỜI của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, sấm ký cũng ghi rõ tất cả trước sau có 3 lần Thượng Đế xuất Đế Đạo (Đạo của Thượng Đế):
"HUYỀN KHÔNG ÁNG ĐỊNH PHẨM TÒA CHƯƠNG [văn bản Huyền Không: Tòa Chương định]
VI DIỆU ĐẠO THIÊN HÉ LỘ ĐƯỜNG [vi diệu Thiên Đạo khải lộ đường hướng]
KỲ ĐỊNH NĂM NÀY TA PHỔ HÓA [thời kỳ đã định sẵn năm nay 2017 Ta bắt đầu phổ hóa]
BA LẦN XUẤT ĐẾ ĐẠO MUÔN PHƯƠNG. [lần ba xuất Đế Đạo muôn phương]
[Khoán: Huyền Không Thiên Đạo Ta Phổ Hóa, Ba Lần Xuất Đế Đạo Muôn Phương.]
MUÔN PHƯƠNG THẾ GIỚI ĐẠO ĐỒNG CHUNG [muôn phương thế giới chung Cội Đạo]
VẠN KIẾP CÀN KHÔN ĐẾN CỬU TRÙNG [vạn kiếp cùng đất trời, xuất từ CửuTrùng]
LINH ỨNG CƠ MẦU NỀN ĐẠO CẢ [cơ mầu linh ứng nay nền Đạo Lớn giáng thế, do căn lành]
CĂN LÀNH ĐƯA CHUYỂN ĐẠO HUYỀN KHUNG." [đưa chuyển Đại Đạo Huyền Khung]
[Khoán: Muôn Phương Thế Giới Đạo Đồng Chung, Cửu Trùng Đạo Cả Đạo Huyền Khung.]
(Trích dẫn GIẢI ĐÁP HUYỀN CƠ, đàn ngày 17 tháng 6 năm Đinh Dậu 2017, Thánh Đàn Long Ẩn tại Saint Louis, MO, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên.)
HUYỀN KHÔNG ÁNG PHẨM hay VĂN BẢN HUYỀN KHÔNG là nói văn bản của Huyền Không Chí Thượng trên Đài Cao Linh Tiêu giáng xuống thế thông qua các vị huyền nam hay huyền nữ tiếp điển chuyển giao đến Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên chứ không phải nói văn bản thế gian. [Chú giải của người soạn.]
Từ huyền khải "xuất Đế Đạo Nam Phương" chỉ để phổ độ chúng dân Nam Việt của thời kỳ trước đây thì nay, nay đến đầu Thượng Ngươn đã chuyển qua thời kỳ "xuất Đế Đạo muôn phương" và "muôn phương thế giới Đạo đồng chung" trong lần ba. Điều này có nghĩa là, thêm một lần nữa xác nhận, sứ mạng của CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ - THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA là mang nền Đại Đạo của Nam Bang ra hải ngoại KHAI CƠ, LẬP GIÁO để hoằng hóa khắp hoàn cầu. [Chú giải của người soạn.]
Sấm ký ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi 2019 của Hội Thánh Giáo Giáo Hội Trường Thiên đã ghi:
"ĐIỂN QUANG THÔNG QUÁN LỜI THẦY KÝ [điển quang lời Thầy ấn ký, phải quán triệt]
KHAI GIÁO, KHAI CƠ MUÔN THẾ KỶ [khai cơ khai giáo hoằng truyền muôn thế kỷ]
HUYỀN KHÔNG THƯỢNG ĐẾ THIÊN LAI GIẢ [Ta Thiên Giả Huyền Không Thượng Đế đến]
ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG THIẾT LẬP KỲ." [để thiết lập thời kỳ Đại Đạo Huyền Không]
[Khoán: Lời Thầy Ký: Khai Giáo Khai Cơ Muôn Thế Kỷ. Huyền Không Thượng Đế, Thiên Lai Giả, Đại Đạo Huyền Không Thiết Lập Kỳ.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Như vậy, Đức Chí Tôn Huyền Không Thượng Đế đã hóa thân xuống thế gian (Thiên lai giả) để KHAI CƠ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO, LẬP GIÁO THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI, thiết lập KỲ BA của ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG. Lời Thầy huyền ký để lại cho muôn thế kỷ sau hiểu rõ thời kỳ CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ. [Chú giải của người soạn.]
"QUA BAO GIAI ĐOẠN KHÔNG HOÀI THỂ [trải qua bao giai đọan không màn thân xác]
PHỔ ĐỘ NHƠN SANH GIÁO ĐẠO BỀ [chỉ lo bề giáo đạo phổ độ nhơn sanh]
THẦN TIÊN THÁNH PHẬT HÀNH CHUYỂN DỊCH [Thần Phật đều tuân theo Máy Cơ Thiên]
HIỆN LỊNH CƠ KỲ KHÔI TRẦN MÊ [lịnh hiện nay là cơ kỳ khôi phục trần mê]
NHƠN SANH GIỚI CHÚNG NGÀY HỖN LOẠN [nhơn giới chúng sanh ngày nay đầy hỗn loạn]
THƯỢNG ĐẾ THẦY KHAI MẬT TRUYỀN BAN [Thượng Đế ban mật truyền Thầy khai mở đạo]
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO RA ĐÒ THẾ [lập giáo Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba]
TAM KỲ PHỔ ĐỘ CHÁNH PHÁP THUẦN." [hoằng thuần chánh pháp Phổ Độ Kỳ Ba]
[Khoán: Thượng Đế Thầy Khai Mật Truyền Ban Thiên Khai Huỳnh Đạo Ra Đò Thế.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO trong sấm ký trên là nói THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA, là con đò do chính THƯỢNG ĐẾ XUỐNG THẾ LÈO LÁI trong KỲ BA này, là "màn ba" của Đế Bạch Ngọc Cung, không phải Thiên Khai Huỳnh Đạo do Đức Phật Thầy tạm thời hoằng khai năm 1962 trong giai đoạn chờ đợi. Tuy sứ mạng THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA là con đò triển khai TÂN LUẬT và TÂN PHÁP của Di Lạc Phật Vương để chuyển hóa thế gian hướng tới tương lai đại đồng bước vào thời kỳ Thánh Đức Tân Dân và trách nhiệm của Đức Ngài kéo dài tới 700 ngàn năm sau, nhưng Thượng Đế vì thương xót chúng nhơn sanh hiện tại trong giờ cuối không nở "hủy diệt tất cả" nên "ban truyền mật chiếu" và "ban truyền mật pháp" căn dặn Thầy Ngôi Hai Trào Tam hoằng THUẦN CHÁNH PHÁP PHỔ ĐỘ KỲ BA để cứu vớt "nguyên căn" trong cơ tận diệt; Là PHỔ ĐỘ KỲ BA không phải TAM KỲ PHỔ ĐỘ của thời mới khai đạo Cao Đài. [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC BẠCH XUẤT KỲ NGUYÊN VŨ THÀNH [Bạch Ngọc Đế thành xuất từ khi vũ trụ mới mở]
HOÀNG THỌ TÁI HẠ KỲ VẠN LÀNH [Hoàng Thiên xuống thế lần ba là thời vạn lành]
THƯỢNG THIÊN KHỞI MẠCH HỮU BIẾN KHỞI [mạch thượng thiên lúc đầu khởi biến]
ĐẾ THƯỢNG TRUYỀN TRỤ TÚC CHIÊU THANH [truyền lời Minh Chiêu đã trụ thế thời qua]
KHAI MINH PHÂN GIẢNG CƠ TỚI ĐÂY [để phân giảng làm sáng tỏ: Cơ Thiên tới đây là]
KỲ CUỘC ĐẠO HÓA CAO ĐỨC THÁNH [cuộc kỳ hóa đạo của Đức Thánh Ngôi Hai Trào Tam]
CƠ TUYỂN CHỌN THỂ HIỆN BẢN NGƠI [là cơ tuyển chọn thể hiện bản ngơi của]
ĐẠO ĐẠI KỶ NGUYÊN GIÁO HÓA HÀNH." [Đại Đạo Huyền Không kỷ nguyên giáo hóa hành.]
[Khoán thủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế Khai Kỳ Cơ Đạo. Khoán ẩn: Ngọc Bạch Tái Hạ Kỳ, Thiên Thượng Truyền Thanh [Ngô] Minh Chiêu Phân Giảng, Cơ Tới Đây Cao Đức Thánh Tuyển Chọn, Thể Hiện Đại Đạo Kỷ Nguyên Giáo Hóa Hành.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN THƯỢNG TRUYỀN THANH MINH CHIÊU PHÂN GIẢNG là nói Thiên Thượng truyền thanh âm (lời truyền được ghi lại thành văn bản) và Đức Ngô Minh Chiêu (Đức Ngài Ngôi Hai Trào Một) phân giảng lời của Thiên Thượng truyền xuống. CƠ TỚI ĐÂY CAO ĐỨC THÁNH TUYỂN CHỌN là nói rằng cơ cuộc sắp tới đây Ngôi Hai Trào Tam (Cao Đức Thánh) được trao quyền tuyển chọn. THỂ HIỆN ĐẠI ĐẠO KỶ NGUYÊN GIÁO HÓA HÀNH là nói để chứng thực thời kỳ Huyền Không Đại Đạo là thời kỳ của Kỷ Nguyên Giáo Hóa Hành. [Chú giải của người soạn.]
"CUỘC TẨY TRẦN CHÓT BUỔI HẠ NGƯƠN [cuộc sàng lọc cuối hạ ngươn buổi chót]
NƯƠNG TÁ DỰNG GIÁ NGƯƠN NHÂN THẾ [giá lâm trần nương tá xác dựng lại thế nhân]
NHỊ HOÀNG THIÊN THẾ CUỘC HẠ THỀ [Hoàng Nhị Thiên hạ trần tuyên thệ rằng]
QUY NHỨT THỐNG BƯỚC VỀ ĐẠI CUỘC [sẽ quy nhứt thống bước về đại cuộc]
ĐỨC NGÔI CAO LÂM TRẦN THAO LƯỢC." [Đức Ngôi Hai lâm trần gian nan thực hiện]
[Khoán: Hoàng Nhị Thiên, Đức Ngôi Cao Lâm Trần Thao Lược.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HOÀNG NHỊ THIÊN hay HOÀNG DI THIÊN là ngôi vị vô vi của Ngôi Hai Trào Tam. DI có nghĩa là "đi" đồng thời "lớn mà không thấy được gọi là DI, nhỏ mà không nắm được gọi là VI." Chữ DI trong phong vị HOÀNG DI THIÊN có nghĩa là "Hoàng Thiên xuống thế nhân gian không thấy được". Còn Ngôi Hai là của con đạo tôn xưng hóa thân của Thượng Đế dưới thế. Thánh Chúa Jesus Giáo Chủ Ki Tô là Ngôi Hai của Phương Tây hai ngàn năm trước hoặc Đức Ngài Ngô Minh Chiêu Giáo Chủ Cao Đài là Ngôi Hai Trào Một của phương Đông đầu thế kỷ 20 và Đức Ngài Nhị Thiên Võ Văn Phẩm Cao Đài Giáo Chủ là Ngôi Hai Trào Hai của phương Đông đầu thế kỷ 20. Đức Ngài Hoàng Nhị Thiên Ngôi Hai Trào Tam xuất lộ vào buổi chót Hạ Ngươn Phán Xét với lời minh thệ "lâm trần thao lược" để "quy nhứt thống bước về đại cuộc". [Chú giải của người soạn.]
"VÂNG THỦ TRUNG SAU TRƯỚC MỘC HUYỀN [Nhân Thập Huyền Thiên thủ trung sau trước]
HAI NGÔI MỘT VAI TRÒN, XUẤT HIỆN [xuất hiện hai ngôi trong một vai Ngôi Hai]
TAM NHỊ THIÊN TIẾP CHUYỂN CƠ MẦU [Hoàng Nhị Thiên Trào Tam tiếp chuyển cơ mầu]
TÂN MINH CHIẾU KỲ TAM CƠ CẤU [là Minh Chiếu mới trong Kỳ Tam cơ cấu]
DANH LÀ THẦY MINH HẬU THƯỢNG TRỜI [danh Ta là Minh Thiên Thầy Trời]
BẠCH NGỌC CUNG THƯỢNG ĐẾ KỶ NGÔI." [Bạch Ngọc Cung Thượng Đế vị ngôi]
[Khoán: Mộc Huyền Hai Ngôi Một Vai Tròn. Tam Nhị Thiên Tiếp Chuyển Cơ Mầu, Tân Minh Chiếu Kỳ Tam Cơ Cấu. Danh Là Thầy Trời Bạch Ngọc Cung Thượng Đế Ngôi Ta.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chiết tự của chữ MỘC là chữ Thập và chữ Nhơn, mượn chữ Bát nói chữ Nhơn vì hai chữ này đồng dạng. Do đó chữ Mộc là có ý nói Thầy Nhơn Thập. Sấm Trạng Trình đã huyền khải từ lâu với hai câu: "Có Thầy Nhân Thập đi về, tả hữu phù trì cây cỏ thành binh". HUYỀN là nói Huyền Thiên Thượng Đế. HAI NGÔI là nói NGÔI CHA Huyền Thiên Thượng Đế và NGÔI CON Hoàng Nhị Thiên Ngôi Hai Trào Tam. MỘC HUYỀN HAI NGÔI MỘT VAI TRÒN là nói ngoài một "hóa thân" là Thầy Nhân Thập Ngôi Hai Trào Tam còn có thêm một Huyền Thiên Thượng Đế "tá xác" ẩn bóng trong hình. XUẤT HIỆN TAM NHỊ THIÊN TIẾP CHUYỂN CƠ MẦU là nói Nhị Thiên Trào Tam hay Ngôi Hai Trào Tam xuất hiện để tiếp nối cơ mầu ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG và chuyển cho TRÀO TAM XUẤT THẾ trong KỲ BA này, tức là họa bóng cho nên hình đúng với lập trình, là thời TÂN MINH CHIẾU KỲ TAM CƠ CẤU. [Chú giải của người soạn.]
Vô Thượng Không Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn cũng đã khải lộ từ năm 1967 về sự hiện diện của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế cũng như sứ mạng của Đức Ngài trong lần thứ ba trở lại:
“DIÊU Ý THIÊN CƠ NGỌC GIÁNG SANH
TRÌ TÂM ĐẠO PHÁP KINH LAI THÀNH
KIM HỒI VÔ NIỆM QUYỂN TRÒN NGHĨA
MẪU ĐÁO VI TRUYỀN BA VẸN DANH
VÔ THỦY MINH MINH THIÊN GIÁNG ĐỂ
CỰC SƠN THIÊN ĐỊNH KHAI CÒN DÀNH
TỪ HÒA ĐẠI THỂ ĐẠI ĐỒNG CHIẾU
TÔN HIỆP NGHĨA CHUNG ĐẠO BẠCH THANH."
[Khoán: Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn. Thiên Đạo Vô Vi Minh Thiên Đại Nghĩa. Ngọc Kinh Quyển Ba (Màn Ba) Thiên Khai Đại Đạo.]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Kim Mẫu Diêu Trì đã nói rõ THIÊN KHAI ĐẠI ĐẠO, THIÊN ĐẠO VÔ VI là ĐẠI NGHĨA của MINH THIÊN, là "màn ba" của Bạch Ngọc Kinh (Ngọc Kinh Quyển Ba). Động từ QUYỂN 捲 Hán Việt còn có nghĩa là "cuốn rèm" tức "kéo màn", màn diễn kỳ ba. Sấm ký NGỌC KINH QUYỂN BA THIÊN KHAI ĐẠI ĐẠO là ẩn ý rằng THIÊN KHAI ĐẠI ĐẠO là màn ba của Bạch Ngọc Kinh. MINH THIÊN là tôn danh của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế. [Chú giải của người soạn.]
Trong bài sấm ký trên còn ẩn hai bài sấm ký khác với ý nghĩa rõ ràng hơn:
"DIÊU Ý [ẨN] THIÊN CƠ [ý trong lời Mẹ Diêu Trì có ẩn giấu Thiên Cơ]
TRÌ TÂM [HÀNH] ĐẠO PHÁP [ráng trì tâm tìm hiểu và hành theo đạo pháp]
KIM [NGÔN] HỒI VÔ NIỆM [kim ngôn của Mẹ là trở về với Vô Niệm]
MẪU [LAI] ĐÁO VI TRUYỀN [Mẹ lai đáo để ẩn mật báo tin rằng]
VÔ THỦY [CHUNG] MINH MINH [có một vòng tròn ánh sáng vô cực]
[ĐỊA] CỰC SƠN THIÊN ĐỊNH [Trời định hạ trần nơi địa cực của đất nước VN]
TỪ HÒA [NÊN] ĐẠI THỂ [là một đấng từ hòa làm nên đại thể]
[GIÁO] TÔN HIỆP NGHĨA CHUNG." [là một vị giáo tôn hiệp đại nghĩa chung]
[Khoán: Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn. Thiên Cơ Đạo Pháp Vô Niệm Vi Truyền, Minh Thiên Định Đại Thể Hiệp Nghĩa Chung.]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Những chữ nằm trong ngoặc vuông [ ] là được chèn thêm vào để làm sáng nghĩa. ĐỊA CỰC SƠN THIÊN ĐỊNH là nói vùng núi non tận địa cực miền Nam nơi Trời đã định. TỪ HÒA NÊN ĐẠI THỂ, GIÁO TÔN HIỆP NGHĨA CHUNG là nói có vị Giáo Tôn từ hòa làm nên đại thể, hiệp được đại nghĩa chung. [Chú giải của người soạn.]
"CƠ NGỌC [ĐẾ] GIÁNG SINH [cơ Ngọc Đế giáng sanh trên đất Việt]
PHÁP KINH [KỲ] LAI THÀNH [ban mật pháp kinh kỳ lần nữa để tu cho thành]
NIỆM QUYỂN [CHO] TRÒN NGHĨA [ý nghĩa là phải dẫn pháp luân cho trọn vẹn]
TRUYỀN BA [LẦN] VẸN DANH [truyền mật pháp đúng 3 lần tròn lời hứa]
MINH THIÊN GIÁNG [THẾ] ĐỂ [Đức Ngài Minh Thiên giáng thế là để]
ĐỊNH KHAI [GIÁO] CÒN DÀNH [khai giáo đã được định trước còn đợi đó]
THỂ ĐẠI ĐỒNG CHIẾU [VIẾT] [nhằm xây dựng một thể đại đồng, sắc chiếu viết:]
CHUNG ĐẠO BẠCH [CHƠN] THANH." [hiệp chung một mối Đạo Bạch Chơn Thanh]
(Trích dẫn NGỌC KINH 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Bốn câu đầu của sấm ký nói rằng cơ Ngọc Đế giáng sinh lần ba là Đức Ngài sắp đến để truyền bí pháp luyện đạo (pháp kinh kỳ lai thành), niệm niệm chuyển pháp luân cho tròn (niệm quyển cho tròn nghĩa), truyền bí pháp trọn ba lần như lời hứa (tròn ba lần vẹn danh). Bốn câu kế nói rằng việc "khai giáo" đã định còn chờ Minh Thiên thực hiện. Huyền Không Thiên Thượng ban sắc chiếu, viết rằng phải lập "thể Đại Đồng" hiệp chung một mối đạo Bạch Chơn Thanh. [Chú giải của người soạn.]
PHÁP KINH KỲ là pháp đạo luyện mạng dùng thần dẫn khí (điển, năng lượng) đi vòng Nhâm Đốc là 2 mạch thuộc "kỳ kinh bát mạch". TRUYỀN BA LẦN VẸN DANH là vẹn danh Cao Đài xuống thế ba lần trên đất nước Việt Nam ba lần truyền trao bí pháp độ thế. Lần thứ nhất là Giáo Chủ Cao Đài Ngôi Hai Trào Một Ngô Văn Chiêu truyền trao cựu pháp Cao Đài. Lần thứ hai là Giáo Chủ Nhị Thiên Võ Văn Phẩm truyền trao tân pháp Cao Đài. Lần thứ ba là là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam "khai Giáo" THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA và truyền PHÁP KINH KỲ cứu vớt "đại linh căn" lập đời Thánh Đức Tân Dân. MINH THIÊN GIÁNG THẾ là nói Huyền Thiên Thượng Đế hóa thân xuống thế, là vị Sư Ông Cao Đại Nhất dưới trần. ĐỂ ĐỊNH KHAI GIÁO CÒN DÀNH là còn dành chờ Sư Ông Cao Đại Nhất đặt định việc khai giáo. Sứ mạng khai giáo của Sư Ông Cao Đại Nhất được THỂ ĐẠI ĐỒNG (Tam Giáo Tòa, Bạch Ngọc Cung, Kim Loan Điện) ấn chứng, tức là có đủ Tam Ấn của Đài Cao Huyền Không Chí Thượng phê chuẩn. Và GIÁO đó là "Bạch Chơn Thanh Giáo" tức "Chơn Thanh Giáo của Bạch Ngọc Cung", là một "giáo thể đại đồng". [Chú giải của người soạn.]
Nội dung đoạn sấm ký cũng là lời Thiên Mẫu Diêu Trì nhắn gởi riêng tới vị "Sư Ông Cao Đại Nhất" hiện đang có mặt dưới thế gian trong xác phàm, tức là nhắn gởi tới vị "Giáo Tôn" lãnh sứ mạng "hiệp nghĩa chung". Đồng thời cũng là những lời mà Thiên Mẫu Diêu Trì muốn nhắn gởi tới tất cả CÁC SƯ ÔNG VÀ CÁC MINH SƯ thừa hành PHẬN SỰ KỲ BA để các ngài hiểu rõ về trọng trách của chính mình và của Sư Ông Cao Đại Nhất, các ngài đã "thệ ước" trước khi xuống thế. Đồng thời Mẹ Diêu Trì cũng muốn BỐ CÁO CHO TẤT CẢ CÁC ĐẠI LINH CĂN ĐANG CHỜ ĐỢI BIẾT RẰNG ÔNG LÁI ĐÒ KỲ BA CHUYẾN CHÓT ĐANG CÓ MẶT GIỮA CHỐN TRẦN AI. [Chú giải của người soạn.]
Tóm lại là kỳ ba màn chót của Bạch Ngọc Kinh chúng dân sẽ chứng kiến cảnh tượng:
"TIÊN ÔNG TRIỀU LUẬN HỘI CHÚNG SANH [Tiên Ông hội triều luận đạo độ chúng sanh]
GIAN THẾ KHAI TAM CHUYỂN THỂ HÀNH [chuyển thể khai mở Trào Tam để thế gian hành]
ÁNH VÀNG ĐẠO THẾ DANH MINH ĐẾ [thế danh Minh Đế Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ 3]
THỐNG NHỨT TỤ TỀ HIỂU RÕ VỀ.” [đã hiểu rõ thì quy về tụ tề thống nhứt nhanh]
[Khoán: Tiên Ông Khai Tam Chuyển Thể Thế Danh Minh Đế. Hiểu Rõ Về Thống Nhứt Tụ Tề.]
(Trích dẫn THÁNH GIÁO, đàn cơ giờ Mão ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Hợi (21/8/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên.)
ÁNH ĐẠO VÀNG là nói THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. TAM KHAI CHUYỂN THỂ THẾ DANH MINH ĐẾ là nói CAO ĐÀI TIÊN ÔNG tức HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ hóa thân xuống thế lần ba, là nói TRÀO TAM XUẤT THẾ, là nói NGÔI HAI TRÀO TAM. Đã biết rõ rồi thì hãy quy về, tụ tề quy nhứt thống phổ hóa Đại Đạo cứu chúng sanh. [Chú giải của người soạn.]
5. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, THÁNH CHÚA GIÁNG LÂM
5.1
"TAM GIÁO TÒA ĐỒNG THANH TIẾN CỬ [Thầy được Tam Giáo Tòa đồng thanh tiến cử]
PHẬT NHƯ LAI DANH DỰ TRỢ NGƯƠN [lại được Chư Phật Như Lai trợ giúp ngươn này]
THÁNH TIÊN TOÀN HẢI KHẮP SƠN [và tất cả Thánh Tiên trong toàn Tam Giới]
RẮP NHAU ĐỀ BẠT LINH CHƠN CỦA THẦY [cùng đề bạt Thầy. Chơn linh của Thầy]
TRƯỚC HAI NGÀN HIỆP VẦY ĐẠI HỘI [hiệp vầy với các vị trước đầu kỷ nguyên 2000]
NƠI LINH TIÊU THÚC VỘI HẠ SANH [nơi Linh Tiêu Điện. Các vị thúc Thầy nhanh hạ sanh]
BIẾT RẰNG QUỶ QUÁI CẠNH TRANH [dầu biết rằng quỷ quái sẽ cạnh tranh với Thầy]
ĐI THÌ BAO NỠ Ở ĐÀNH HAY SAO? [Thầy phân vân vì đi thì không nỡ ở cũng không đành]
CÁC TINH QUÂN XEN VÀO THÚC HỐI [các vị Tinh Quân thúc hối Thầy mau giáng sanh]
CÙNG VỚI THẦY LO HỘI LONG HOA [họ hứa sẽ cùng với Thầy lo Hội Long Hoa]
TRÊN THÌ SẴN BỐ THIÊN LA [trên trời họ bủa lưới Thiên La, dưới đất giăng lưới Địa Võng]
DƯỚI GIĂNG ĐỊA VÕNG TINH TÀ PHẢI KIÊNG [để tinh tà không hại phàm thân của Thầy]
THẦY LÃNH LỊNH XUỐNG MIỀN DƯƠNG THẾ [Thầy lãnh lịnh đầu thai xuống dương thế]
CHỜ ĐẾN NGÀY KHÁNH TỂ TRIỀU BAN." [ẩn hình lặng lẽ chờ đến ngày triều ban khánh tể]
(Trích dẫn DI LẠC CHỦ NGƯƠN, Ngọc Kinh 3, trang 34, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Sấm ký trên là cảnh tượng "hội nghị" tại Linh Tiêu Điện trên cõi Huyền Không Chí Thượng vào thời điểm trước năm 2000 tại thế. Tất cả chư Thần Phật trong Đại La Thiên sum vầy để tiến cử và thôi thúc "chơn linh của Thầy" (tức chiết thân của Thượng Đế) hạ phàm chuyển sanh. Tất cả chư Phật, Như Lai hứa sẽ phò trợ Đức Ngài trong Ngươn Tái Tạo này. Tất cả Tinh Quân hứa sẽ bày Thiên La Địa Võng để bảo vệ Đức Ngài. Tất cả Phật Thánh Tiên hứa sẽ xuống thế cùng Đức Ngài lập hội Long Hoa. Thật là một cảnh tượng "náo nhiệt" chưa từng có. [Chú giải của người soạn.]
5.2
NAY CHUYỂN THẾ ĐẠO TRÀNG KHAI HOÁT [Nay đã chuyển thế mở rộng đạo tràng]
CHO CON TA HỶ LẠC THỪA HÀNH [cho con ta DI LẠC thừa hành]
TÙY THEO PHONG HÓA LẬP THÀNH [tùy vào phong hóa từng nơi mà lập thành]
CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO CHÁNH DANH NGỌC HOÀNG [Cao Đài Đại Đạo chánh danh Ngọc Hoàng]
TRUYỀN THẾ GIỚI KHAI TRÀNG HUẤN GIÁO [mở Trường Giáo Đạo truyền ra thế giới]
CHO CON TRẦN CẢI TẠO TÂM TƯ [để cải tạo tâm thức nhân loài]
KỲ BA ĐẠO MỞ BẤY CHỪ [Thiên thư đã ghi rõ là: Ngọc Hoàng xuống thế]
NGỌC HOÀNG TÁ THẾ THIÊN THƯ ĐỀ RÀNH [thì lúc bấy giờ Đạo Mở Kỳ Ba]
CHUYỂN ĐẠI ĐẠO LẬP THÀNH NAM VIỆT [chuyển nền Đại Đạo đã lập thành tại Nam Việt]
DỤNG HUYỀN LINH GIÁO THUYẾT CON TRẦN [dụng huyền linh vi diệu thuyết giáo]
LẬP ĐỜI MINH ĐỨC TÂN DÂN [cho con trần nghe để lập đời Thánh Đức Tân Dân, chuyển]
CHUYỂN NGƯƠN TÁI TẠO NƠI TRẦN PHỤC NGUYÊN [Ngươn Tái Tạo phục nguyên cõi thế]
KHAI KỲ HẠ TRẦN MIỀN THẤT ỨC [hạ trần để khai mở thời kỳ 7 ức niên nơi trần miền]
DỰNG ĐỜI TÂN TRI THỨC LO TOAN [dựng đời với tri thức mới lo toan việc]
NIẾT BÀN LẬP TẠI TRẦN GIAN [thiết lập Niết Bàn tại thế gian, đâu như trước đã nghĩ]
ĐÂU CÒN NHƯ TRƯỚC NIẾT BÀN CÕI KHÔNG." [Niết Bàn đâu chỉ hiện hữu cõi hư không]
[Khoán: Kỳ Ba Đạo Mở, Ngọc Hoàng Tá Thế Thiên Thơ Đề Rành: Chuyển Đại Đạo Nam Việt, Dụng Huyền Linh Giáo Thuyết, Lập Đời Chuyển Ngươn Tái Tạo, Thất Ức [Niên] Dựng Đời Tân Tri Thức, Lo Toan Niết Bàn Lập Tại Trần Gian.]
(Trích dẫn BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), Văn Phòng Đại Đạo, pháp đàn Bạch Liên Bạch, đồng tử Huỳnh Hoa. Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn.)
Đoạn sấm ký trên huyền khải rõ ràng Ngọc Hoàng Thượng Đế hạ sanh thế gian lần ba này không phải để thiết lập một giáo thuyết mới nhằm dẫn dắt thế nhân hướng về một thiên đàng hay niết bàn trừu tượng trong cõi hư không như các Giáo Tôn trong quá khứ đã làm mà là để thiết lập một nền tảng đạo đức cho nhân loại trường tồn và hướng tới công cuộc xây dựng một niết bàn tại thế nhờ vào những tri thức mới sẽ được chuyển giao trong tương lai, với thời gian ước tính là bảy trăm ngàn năm tới, một thời kỳ vô vi hóa duy vật, một thời kỳ khoa học sẽ song hành với tôn giáo hiện đại. Đây là một điều vô cùng tân kỳ. Khái niệm này hoàn toàn không giống với các tôn giáo trước. Thần Phật và E.T. bổng dưng gần gũi nhau lạ. Một huyền khải rất "sốc" và mở ra cánh cửa đầy hy vọng và niềm tin vào tương lai cho nhân loại: Bảy trăm ngàn năm sau nhân loại trên trái đất sẽ trở thành một thành viên của cộng đồng thiên hà với nền khoa học vượt trội đến mức không thể nghĩ bàn, bằng vào tri thức hôm nay chỉ có thể dùng cụm chữ "niết bàn tại thế" để miêu tả. [Chú giải của người soạn.]
"HỠI NÀY TRẺ HỘI ĐỒNG GÓT THÁNH [hỡi trẻ hãy cùng chung bước với Chúa Thánh]
ĐẶNG HƯỞNG NHỜ TRONG CẢNH THƯỢNG ĐỜI [để hưởng ân phúc thời ngươn thượng]
TẠI TRẦN NÀY HỠI CON ƠI! [ngay tại cõi trần này hỡi các con của Ta ơi, các bậc hiền nhân]
HIỀN NHÂN THÁNH TRIẾT CHỈNH ĐỜI THUẦN PHONG [thánh triết sẽ chỉnh lại phong hóa]
NẠN TIÊU DIỆT TRÀN ĐỒNG LÀ THẾ [tiêu diệt vô số kẻ tà ác là để chỉnh nhơn phong]
ĐỂ LỌC LỪA HẬU KẾ GIÁO DÂN [để lọc lừa chọn lựa giáo dân kế thừa mai sau]
THAY THƯỢNG ĐẾ BẬC THÁNH THẦN [các bậc Thánh Thần thay mặt Thượng Đế]
CHUYỂN XÂY THẾ HỆ VĨ NHÂN TRỊ ĐỜI [xuống thế trị đời là các vĩ nhân chuyển xây thế hệ]
VÌ LUẬT ĐỊNH TRONG THỜI KHAI HỘI [luật định trong thời khai Hội Long Hoa]
CHUYỂN BÌNH MINH TIẾP NỐI ĐỆ TAM [chuyển Minh Thiên đến thế gian tiếp nối Kỳ Ba]
PHÁI, CHI ỨNG DỤNG TRUYỀN BAN [truyền ban các chi các phái rõ để ứng và dụng]
TRONG NỀN ĐẠI ĐẠO NGỌC HOÀNG CHUYỂN RA. [trong nhứt mạch Thiên Khai Đại Đạo]
(Trích dẫn BÌNH MINH ĐỆ TAM, đàn giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), Văn Phòng Đại Đạo, pháp đàn Bạch Liên Bạch, đồng tử Huỳnh Hoa. Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn.)
Sấm ký này đã huyền khải Phật Thánh Tiên hóa thân xuống thế sẽ là những vĩ nhân trị đời với đạo đức sáng ngời cùng với tri thức tinh khôi (tri thức mới). Tiến trình sẽ kéo dài bảy trăm ngàn năm (7 ức niên). Xã hội loài người sẽ tiến bộ vượt bực về mặt khoa học thực dụng song hành với tâm linh siêu việt để có thể thiết lập Niết Bàn tại thế. Đó là một tương lai tuyệt vời dành cho nhân loại, dành cho những ai tồn tại sau những sàng sảy kinh hồn (được tuyển lựa là Tân Dân của đời Thánh Đức). Trái đất sẽ đổi mới. Con người sẽ đổi mới. Vạn vật trên trái đất này cũng sẽ đổi mới. Thế giới sẽ phủ trùm Hỷ Lạc của Di Lặc Phật Vương. Tất cả sẽ được thực hiện với năng lực vô hình bất khả tư nghị của Huyền Không Chí Thượng thông qua bàn tay và ý thức của toàn thể nhân loài (thông qua hữu hình). Khả năng tâm linh của nhân loại sẽ được nâng lên và sẽ có khả năng tiến nhập vào thế giới duy độ cao hơn. Khoa học cao cấp sẽ được chuyển giao cho nhân loại thông qua khả năng tâm linh. Năng lực vô hình cũng sẽ được khai mở cho các Minh Sư tại thế, lặng lẽ và ẩn mật phối hợp với Thiên Thượng. Di Lạc Phật Vương đang và sẽ tiếp tục có mặt tại trần gian trong suốt thời gian bảy ức niên tới, trong xác thân những con người bằng xương bằng thịt trong những vai trò khác nhau ở mỗi giai đoạn theo nhu cầu với những lần hóa thân xuống thế trở lại, nhưng hiện thân của Di Lạc sẽ luôn luôn là một ẩn số mà người đời chỉ có thể thấy "loáng thoáng bóng Huỳnh Long". [Chú giải của người soạn.]
Như đã nói qua BÌNH MINH bạch văn là "trời sáng" còn ẩn ý của sấm ký là nói MINH THIÊN (tôn danh của Huyền Thiên dưới thế). BÌNH MINH TIẾP NỐI ĐỆ TAM theo bạch văn chỉ là "kinh Bình Minh cuốn thứ ba" nhưng theo ẩn nghĩa của sấm ký thì lại là "Minh Thiên trào tam tiếp nối". Theo bạch văn CHO CON TA HỶ LẠC THỪA HÀNH là cho tất cả con đạo Cao Đài Thống Nhứt nói riêng và con đạo dưới thế nói chung hoan hỷ làm theo hướng dẫn của Mẹ Diêu Trì, nhưng ẩn nghĩa của sấm ký thì không đơn giản như thế. Vậy CON TA HỶ LẠC THỪA HÀNH là ám chỉ đấng nào thừa hành? Thưa chính là nói DI LẠC PHẬT VƯƠNG đấng HỶ LẠC, và như sấm ký trong Ngọc Kinh 3 từng huyền khải: "tá danh Di Lạc trần gian, Minh Thiên là hiệu, Minh Hoàng là danh." Như vậy rõ ràng "con Ta Hỷ Lạc" là nói Đức Ngài Minh Thiên, cũng là Đức Di Lạc Phật Vương. [Chú giải của người soạn.]
5.3
DI VÌ THÁNH LỊNH CỦA TRỜI BAN [vì thánh lịnh của Trời ban]
LẠC HỘI CỘNG ĐỒNG TẠI THẾ GIAN [Di Lạc hội cộng đồng tại thế gian]
PHẬT LUẬT Y HÀNH CHO PHẢI PHÉP [Phật luật y hành cho phải phép]
VƯƠNG MINH TRẠCH ĐỨC MỚI PHÂN PHÀM. [vương minh trạch đức phân thánh phàm]
[Khoán: Di Lạc Phật Vương, TRỜI Tại Thế Gian.]
CHÚNG ĐỆ TỬ PHẬT NAY NGHE LỊNH [Chúng đệ tử Phật Vương nay hãy nghe lệnh!]
SẮC CHỈ TA PHỤNG LĨNH NGỌC HOÀNG [Ta phụng lĩnh sắc chỉ Ngọc Hoàng]
CẦM CÂN THƯỞNG PHẠT TRẦN GIAN [cầm cân thưởng phạt thế gian]
TRƯỚC LO TRỊ ĐẠO SAU TOAN TRỊ ĐỜI...[trước là trị Đạo sau tới trị Đời]
CHỚ KHOE KHOANG TRỒNG ĐÁ DỜI SÔNG [chớ khoe tài của kẻ vô thần]
TRỜI NAM PHỤNG KIẾN NGÔ ĐỒNG [rồi sẽ được thấy Thánh Nhân Nam Việt]
ĐẤT VÀNG HẠC GÁY, CÁ RỒNG PHI THIÊN...[nơi đất Bảo Châu lập đài Phong Vân]
ĐỜI DANH LỢI UY QUYỀN CHEN CHÚC [Đời vì danh lợi quyền mà tranh giành chen chúc]
ĐẠO KHÔNG NGOÀI LÚC THÚC CHẠY THEO [Đạo không ngoại trừ cũng lúc thúc chạy theo]
BÊN LỀ ĐƯỜNG CÁI THÔNG REO [đứng bên lề đường cái sừng sững dáng thông reo]
BÓNG HUỲNH THẤP THOÁNG NÚI ĐÈO BIỂN SÔNG. [Sơn Liên ẩn hiện Huỳnh Long bóng]
(Trích dẫn CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 8 năm Canh Tý (8/10/1960) tại Ngũ Phụng Kỳ Sơn, Thiên Khai Huỳnh Đạo.)
CHỚ KHOE KHOANG TRỒNG ĐÁ DỜI SÔNG tương đương với câu "vắt đất ra nước thay trời làm mưa" trên cửa miệng của những kẻ vô thần trong một thời, chỉ là nhắc lại cho nhớ. NGÔ ĐỒNG hàm 2 ý: (1) Cây ngô đồng; (2) "đồng" với ông Ngô Minh Chiêu, là Ngôi Hai Trào Một, Giáo Chủ Cao Đài Đại Đạo. TRỜI NAM PHỤNG KIẾN NGÔ ĐỒNG hàm hai ý: (1) Nam Việt sẽ thấy xuất hiện (kiến) một quý ông (phụng) đồng đẳng với ông Ngô Minh Chiêu (Ngô đồng); (2) Ông Ngôi Hai Trào Tam (phụng trời nam) sẽ đến đảnh lễ (kiến) ông Ngô Minh Chiêu Ngôi Hai Trào Một, để tiếp nhận truyền thừa trong vô hình. ĐẤT VÀNG là Golden State, vùng đất vàng California, vùng đất bảo châu. ĐẤT VÀNG HẠC GÁY là nói có một nền Đạo sẽ khai mở tại vùng Đất Vàng California. HẠC GÁY có nghĩa là Tiên Gia cất tiếng. CÁ RỒNG PHI THIÊN là nói cá hóa thành rồng bay lên trời, ám chỉ công thành danh toại. ĐẤT VÀNG HẠC GÁY CÁ RỒNG PHI THIÊN là nói nơi vùng đất California sẽ có Đạo Trường của Tiên Gia ra đời và đó cũng là Thi Trường Long Vân trong vận kỳ tuyển trạch các Thiên Long và Thiên Hoa đủ đức tài tham dự Long Hoa Đại Hội. [Chú giải của người soạn.]
Tất cả các huyền khải này đã thành sự thật. QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO được khai mở tại Nam California theo lịnh của Huyền Khung Thiên Thượng, Chánh Tòa được đặt tại Westminster từ năm Đinh Dậu 2017, dưới danh xưng HỘI THÁNH GIÁO HỘI TRƯỜNG THIÊN, và sau cùng là chính thức "khai giáo" (tôn giáo) ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG - CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ - THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA vào ngày 10 tháng 3 âm lịch năm Giáp Thìn 2024. [Chú giải của người soạn.]
Theo Wikipedia, hai câu thơ nổi tiếng tả cây ngô đồng là "Nhất chu thanh ngọc lập, thiên diệp lục vân ủy", biểu đạt được hình thái kỳ vĩ của nó. Từ thời Hán nó trở thành là loại cây không thể thiếu trong hoàng cung ngự uyển. Theo truyền thuyết, cây ngô đồng là nơi trú ẩn ưa thích của loài chim phụng hoàng. Phụng là con chim trống, hoàng là con chim mái. Chim phụng là biểu tượng cho Vua còn cây ngô đồng là biểu tượng chỗ ở của Vua (hoàng cung). Huyền khải "Trời Nam phụng kiến ngô đồng" có nghĩa là Nam Việt sẽ xuất đế vương và với câu liền theo "đất vàng hạc gáy cá rồng phi thiên" thì xác định vị đế vương này là một vị vua đạo (còn Tây Phương gọi là Giáo Hoàng) chứ không phải vua đời. [Chú giải của người soạn.]
THÔNG REO tượng trưng cho tiếng nói của người quân tử hay của bậc thánh hiền, như ông Nguyễn Công Trứ đã từng cảm thán:"Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo". BÊN LỀ ĐƯỜNG CÁI THÔNG REO là nói bậc Thánh Hiền chấp nhận đứng bên lề cuộc đời như cây thông sừng sững không cong vẹo đứng bên lề đường cái. NÚI ĐÈO BIỂN SÔNG là nói chữ NÚI đèo theo (gùi sau lưng) chữ SÔNG tức là nói chữ SƠN HÀ, mà chữ SƠN HÀ cũng là SƠN LIÊN vì chữ 荷 đọc là HÀ hoặc HẠ có nghĩa là SEN hay HOA LIÊN. Sơn Hà và Sơn Liên đều là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. BÓNG HUỲNH THẤP THOÁNG NÚI ĐÈO BIỂN SÔNG là ẩn ý huyền khải "bóng Huỳnh Long thấp thoáng Sơn Liên" tức là nói "Sơn Liên ẩn hiện bóng dáng Huỳnh Long". Chữ Huỳnh Long (con rồng Huỳnh Đạo) là từ khóa ám chỉ DI LẠC PHẬT. Lão Tử đã từng giảng "nhìn mà không thấy là DI, nghe mà không thấy là HI, nhỏ mà không nắm được là VI." Khổng Tử cũng từng nói về Lão Tử "như thần long thấy đuôi không thể thấy đầu". Cho nên người đời sẽ không thể "thấy" DI LẠC HUỲNH LONG dầu Phật Vương có thực sự đang tại thế gian trong một nhân thân giữa dòng đời xuôi ngược cho nên mới nói "bóng Huỳnh thấp thoáng", dầu là có đến ngày "khánh tể triều ban" đi nữa thì cũng chỉ là thấy "bóng Huỳnh thấp thoáng" mà thôi. [Chú giải của người soạn.]
5.4
MƯỢN VAI THẾ CHỢ ĐỜI COI THỬ [đóng vai người trần giữa chợ đời để coi thử]
MƯỢN DỤNG HÌNH HAI CHỮ TỪ BI [mượn xác hình để dạy hai chữ Từ Bi]
VÔ HÌNH VÔ TƯỚNG BẤT Y [nói rằng vô hình tướng nên không tin không làm y]
THIÊN HÌNH BÓNG DẠNG THIÊN KỲ GẦN BÊN [nay bóng dạng ÔNG TRỜI đà kề cận]
TRẦN THẾ ĐÂU CHỨNG TÊN TỬ LÃO [nhưng trần thế đâu chứng tên Con của Lão]
KẺ NGANG NGĂN CÔNG NÃO MỌI ĐIỀU [kẻ ngang ngược còn cản ngăn làm khó mọi điều]
KHUYÊN NGƯỜI RĂN ĐỦ SỚM CHIỀU [khuyên dân Ta răn dạy hết sớm tới chiều]
CHIẾU THEO NHÂN QUẢ THIỆN ĐIỀU TỘI CÔNG [chiếu nhân quả công tội không hề sai]
GIÁO PHÁP CƠ BAN CÔNG GIỜ LỘ [giờ thì tới lúc công khai lộ cơ ban giáo pháp]
THÂN XÁC NÀY ẨN BỘ TA ĐÂY [thân xác Ngôi Hai Trào Tam này ẩn bộ Ta đây]
THẤY ĐỜI CÒN CHẲNG BAO NGÀY [thấy đời chẳng còn được bao ngày nữa]
SỔ TRẦN ĐÃ ĐẾN XÁC THÂY NỔI BỒNG [sổ trần đến lúc xét, thấy xác thây trôi nổi]
TA ẨN DẠNG HƯ KHÔNG KHÓ THẤY [từ hư không đến Ta ẩn nơi thân của Con Ta ai thấy]
XUỐNG THẾ TRẦN KHÉP LẠI SỔ TRẦN. [Ta xuống thế trần để tính sổ nhơn sanh]
TIẾC THƯƠNG TA ĐÃ LỘ RỀN [còn tiếc thương nên Ta đã khải lộ cơ thiên rền khắp]
BÂY GIỜ PHẢI HỦY TUỔI TÊN BỤI TRẦN.[vì không nghe nên nay Ta đành phải hủy thôi]
NGÀI ĐÃ LỘ THẾ NÀY TA XỬ [Đức Ngài đã xuất lộ là đến lúc thế trần này Ta xử]
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THẬT LÀ TA [Ngọc Hoàng Thượng Đế chính là TA]
KHẨU XUẤT LỜI NAY TA CHÍNH LÀ. [Lời này là của TA Ngọc Hoàng Thượng Đế]
SƠN TRUYỀN THẬP TỰ HIỆP NHỨT CHI [Thập Tự Bửu Sơn hiệp một chi]
ÁN BÌNH CAN TÁ NẢY ĐỊA VI [Ấn. Thiên Bình từ Trời Cao hóa sanh dưới đất]
HUỲNH QUANG NHỨT KHÍ TỪ ÂN CHÚNG [một khí Huỳnh quang ân từ ban chúng]
BỔ HÓA DIỆU ÂM TAM CÕI QUY. [diệu âm bổ hóa ba cõi thiên nhân địa quy về]
HUYỀN ĐỨC THIÊN HẠ TRAO THÁNH ĐẠO [Đức Huyền Thiên hạ thế trao Thánh Đạo]
CÂN SỬA LOÀI NGƯỜI BỔ HÓA VÀO [bổ hóa đạo lành chỉnh sửa nhơn loài]
TAM THÁNH TINH QUÂN TỪ ÂN HÓA [từ ân của Tam Thánh Tinh Quân hoằng hóa]
LỊCH HẠ ĐẠI THIÊN ÂN ĐỨC NÀO. [khắp cả Đại Thiên ân đức nào bằng]
THÁNH TINH QUANG QUỐC QUY THẬP VẠN [tinh quang Quốc Thánh hiệp Phật Chúa]
ĐẠO THƯỢNG THANH THIÊN LUẬT ĐẠO RĂN [Thiên Đạo luật răn lời đạo thượng]
GIÁC MÊ MAU THỨC LỜI CHÁNH GIÁO [lời chánh giáo giác trần mê mau tỉnh thức]
ĐÀI NGŨ LUÂN HÀNH HÌNH TỬ CĂN. [đừng để đài ngũ luân xét tội xử phạt các con]
ƠN HOÀNG PHỤ SANH NHI KHAI ĐẠO [Ơn Thiên Hoàng sanh Ngôi Hai khai đạo]
SANH BA NGÔI TAM BỬU CÀN CAO [Càn Cao Thiên sanh Ba Ngôi Trào]
TỪ ẤU NHI HỌC ĐẠO LÃO THÀNH [từ khi còn là con nít học đạo cho tới già]
KINH DỮ ĐẠO, ĐẠO MẦU SÁNG TẠO. [kinh điển và đạo mầu đều sáng, tạo]
MÀN ĐÊM ĐÃ PHỦ, RẠNG SƯƠNG MAI [đêm qua rồi, bình minh tới, Minh Thiên đã tới]
CÕI TRẦN AI NGỦ NGỌC TIẾC THAY [người đời vẫn chưa thức Ngọc Đế tiếc thay]
MUÔN NĂM CÓ MỘT HIỆN LINH ĐIỂN [muôn năm mới có một linh điển xuống thế]
MAU TỈNH! NGÔI XƯA TRỞ LẠI NGAY." [mau tỉnh dậy về lại ngôi xưa con Ta hỡi!]
(Trích dẫn NGỌC KINH: LONG HOA MỞ HỘI KHAI QUỐC ĐẠO, đàn giờ Ngọ ngày mùng 9 tháng Giêng năm Canh Tý (2/2/2020), Vía Ngọc Hoàng, thánh đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
ƠN HOÀNG PHỤ SANH NHI KHAI ĐẠO, SANH BA NGÔI TAM BỬU CÀN CAO rõ ràng là nói Hoàng Thiên (Càn Cao) sinh ra Ngôi Hai (sinh con khai đạo) và sanh tới ba Ngôi Hai khai đạo ba trào tức là nói Ngôi Hai Trào Một, Ngôi Hai Trào Hai và Ngôi Hai Trào Ba. Tuy nói "ba ngôi con" nhưng thật ra cũng chỉ có một ngôi, chỉ là giáng hạ 3 lần thiết lập ba trào mà thôi, lần chót Kỳ Ba này là giai đoạn khai cơ lập giáo của Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
Chiếu theo nội dung sấm ký này thì Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam đã xuất lộ ở Phương Tây và đang thuyết giảng giáo pháp tại vùng "đất vàng hạc gáy cá rồng phi thiên", tức "vùng đất bảo châu" California của Hoa Kỳ. [Chú giải của người soạn.]
5.5
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THIÊN QUAN [Ngọc Hoàng Thượng Đế Thiên Quan tới]
CHUYỂN XOAY THẦN SẮC ĐIỂN PHÔ MỘT BẦU [sắc thần chuyển xoay một bầu thế giới]
ĐẾ XUỐNG TẾ ĐỘ GOM THÂU [Thánh Chúa xuống trần tế độ gom thâu]
TAM KỲ CHUNG CHỈ CƠ SÂU DẠY TRUYỀN. [dạy truyền Kỳ Ba chỉ dẫn cho thấy cơ sâu]
VÔ CỰC KHAI SẮC RÀNH RÀNH [Vô Cực Huyền Thiên khai sắc ấn rành rành]
XEM KÌA CON TRẺ TU HÀNH CĂN DUYÊN [xem căn cơ con trẻ căn duyên tu hành]
ĐẠO CHƠN THẦY CHUYỂN GIÁO TRUYỀN [Thầy chuyển giáo dạy truyền Chơn Đạo]
DIỆU ĐỀ ĐẠO HIỆU MÔN HUYỀN HƯ VÔ. [Huyền Môn Hư Vô là diệu đề đạo hiệu]
MỘT GIỜ THIÊN ĐIỂN CHUYỂN XOAY [một giờ thiên điển Trời chuyển xoay]
THIÊN CƠ VẠN PHÁP BAN KHAI XUỐNG TRẦN [là Thiên Cơ Vạn Pháp được ban khai]
CHỈ ĐƯỜNG ĐIỂN KÝ XÁC THÂN [xuống trần điển tá xác thân chỉ đường cho con trẻ]
LỜI THIÊN PHÁP ĐIỂN ĐÓN PHÂN ĐẠI ĐỒNG. [hãy đón phân lời điển Thiên Pháp Đại Đồng]
LO TU CHO ĐƯỢC TRẺ ÔI [Thầy khuyên con hãy tu đi trẻ]
CHƠN KINH THIÊN LỊNH SẮP HỒI CỨU NGUY [Chơn Kinh ban cho con là để cứu nguy]
CHA THẦY DẠY ĐẠO CHÓT KỲ [Cha Thầy dạy đạo cho con Kỳ Ba lần chót]
HIỆP THIÊN AI DỰ MAU THÌ ĐẶNG AN [ai mau hiệp với Thượng Thiên thì đặng an]
CHƠN KINH BẢO DƯỢC ỨNG SANG [Chơn Kinh ban xuống là thuốc quý cứu con]
HIỆP CƠ ĐỀU XUỐNG NHÂN GIAN XEM CÙNG…[Cơ Thiên chư vị đều xuống hiệp cùng]
TÂY PHƯƠNG NGỌC GIÁ ĐỊNH BAN [Thầy giá ngự ở Phương Tây là để định ban]
CHUYỂN XOAY TỨ HƯỚNG CỨU NÀN THIỆN LƯƠNG [chuyển xoay 4 hướng cứu nguy nan]
SẮC TRỜI GIÁNG THẾ RÕ TƯỜNG [nếu con đã rõ tường Thầy Trời đã giáng thế]
MAU MAU TỈNH DẬY thoát đường nạn hư. [thì mau mau tỉnh dậy tìm đường thoát nạn về]
TRIỂN KHAI LẬP HỘI NĂM CHÂU [Thầy triển khai Đại Đạo lập hội khắp hoàn cầu]
TRẺ MAU THẤU ĐÁO CÙNG NHAU ĐỒNG LÒNG [trẻ hiểu rõ mau hiệp cùng một dạ]
LÊ DÂN SẮP TỚI LONG BONG [sắp tới nhân loài trôi nổi bởi thiên tai nhân họa]
ĐỔI THAY THAY ĐỔI ĐẠO DÒNG CHỊU MANG. [thay thay đổi đổi Đạo Dòng ách mang]
ĐÒ CHUYẾN CHÓT RÁNG LO CÒN SỐNG [Đò Chót của Thầy ra độ, ráng lo tu để còn sống]
MÀN NÀY PHẢI MÓT BÒN CON ĐẬU [màn này con phải bòn mót cho đậu đức công]
CỐ MÀ LO KIỂM XÉT GIÚP NHAU [ráng mà lo kiểm tâm xét tánh thiện lòng giúp nhau]
ĐÒ CHUYẾN CHÓT CỦA BÁU GIỮ VÀO. [chuyến đò chót này có đủ Tam Bảo. Hãy ôm vào!]
BỌC XÁC CHA ĐẶNG PHƯỚC LONG HOA [được Cha phủ điển là có phước Long Hoa vào]
TU PHẢI SỬA LONG HOA ĐẮC ĐẠO. [tu phải ráng sửa để Long Hoa đắc đạo]
TÔN THÁNH ĐẾ MINH VƯƠNG THÂU TÀ [Thầy là Minh Vương Tôn Thánh Đế]
TA GIÁNG THẾ MUÔN NHÀ CẢM ĐỨC [thâu tà Thầy giáng thế muôn nhà cảm đức]
LỜI THƯỢNG ĐẾ GIÁNG PHÂN OAI LỰC [Thượng Đế Cha giáng điển phân lời oai lực]
QUỐC ĐẠO CHÂU NHI ĐỨC LẬP TRÀNG [Đạo Quốc: Con châu ngọc của Ta mở Trường]
BAN HUYỀN BÍ TRUYỀN LINH CHA GIÁNG [Cha giáng linh ban truyền huyền bí pháp]
KIM KHAI BẢNG TÂN DÂN THƯỢNG KHÁCH. [và khai kim bảng Tân Dân Thượng Khách]
[Khoán: Tôn Thánh Đế Minh Vương Giáng Thế. Thượng Đế Giáng Phân Quốc Đạo Lập Tràng. Linh Cha Giáng Kim [thân] Khai Bảng Tân Dân Thượng Khách.]
THÁNH LẬP BẢNG ĐẮP ĐÀI CHÚA AN [Thánh Chúa đắp đài an vị lập phong bảng]
CÕI DI LẶC THƯỞNG BAN ĐÀO HỘI [Hội Ngươn Thiên Di Lạc cõi Bàn Đào thưởng ban]
XÉT KHỔ CÔNG ĐẮC QUẢ VỊ NGÔI [xét công khổ nhọc đắc quả được vị ngôi cao]
BẢNG PHONG ĐÀI TRẦN CÕI KIM THÀNH. [tại trần Kim Thành nơi lập đài phong bảng]
[Khoán: Thánh Chúa Di Lạc Xét Quả Vị Ngôi Phong Bảng [ngay tại] Cõi Trần.]
DẠ BÁC ÁI TỨ ÂN TRUYỀN ĐẠO [vì lòng bác ái nên ban ân truyền đạo]
KHAI TRỤ MỞ BỬU CHÂU TAM GIÁO [mở khai Tam Giáo trụ trên đất bửu châu]
KẾT THÁNH TÒA BỒI ĐẠO LẠC HỒNG. [dựng Thánh Tòa bồi dưỡng Đạo Lạc Hồng]
KỈNH PHỤNG THỜ VÔ VI CHA DẠY [dạy kỉnh phụng thờ Cha Mẹ Vô Vi]
HIỀN LƯƠNG ĐEM TRỔ LẠI QUÊ NHÀ [đem kẻ hiền lương về trổ sanh trên đất Việt]
THIÊN QUÂN TRỞ LÀNH THAY PHỤ GIÁ [lành thay Thiên Quân Cha đáo thế]
KIẾM TỪ BI TỪ DẠ KHẮP NƠI. [tìm kiếm khắp nơi con trẻ có lòng từ để đem về]
ĐẾN LIÊN TÒA TRẺ ÔI THÂN HÓA [trẻ ôi hóa thân đến tại thế liên tòa]
PHẬT XUẤT THÂN HOÁ ĐỘ DUNG HÒA [Phật Ngài ẩn phàm thân độ hóa dung hòa]
MAU BƯỚC VỀ LIÊN HOA CHÁNH ĐẠO." [mau bước về học chánh đạo với Liên Hoa]
(Trích dẫn NGỌC KINH: TÂN ĐẾ ẤN VÔ THƯỢNG LẬP CHÁNH NGÔI, đàn giờ Tý ngày 27 tháng 2 năm Giáp Thìn (5/4/2024) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
ĐÒ CHUYẾN CHÓT CỦA BÁU GIỮ VÀO là nói chuyến đò này có đủ Phật bảo, Tăng bảo, Pháp bảo nên con trẻ hãy ráng giữ cho chặt vào để hưởng đặng hồng ân. BỌC XÁC CHA ĐẶNG PHƯỚC LONG HOA là nói thân xác con trẻ được điển Cha bọc xác là được phước sống còn để dự Long Hoa. LIÊN HOA hay HOA LIÊN là nói chữ 荷 này, phát âm HÀ hoặc HẠ nghĩa là Cây Sen tức Hoa Liên. Sấm Trạng Trình cũng đã huyền khải tên của Thánh Nhân, tức Thầy Nhân Thập, trong câu "Mộc Hạ Liên Đinh Khẩu, hứa cập Thánh Nhân danh." Tạm dịch: Mộc Hạ Liên Đinh Khẩu là danh tánh của Thánh Nhân. MỘC HẠ LIÊN là nói chữ 荷 này, viết với bộ Thảo, phát âm Hạ/Hà, nghĩa là Liên. Trong cách đánh đố Trạng Trình mượn chữ Mộc để chỉ bộ Thảo, vì Thảo 艹 và Mộc 木 đồng tông. ĐINH KHẨU là nói chữ 何 này. Hợp tự của chữ ĐINH 仃 và chữ KHẨU 口 thành chữ 何 này phát âm là Hà, nghĩa là họ Hà. Hợp tự của cụm chữ Mộc Hạ Liên và của cụm chữ Đinh Khẩu đều là nói về HÀ tức HOA LIÊN. Như vậy MAU BƯỚC VỀ HOA LIÊN CHÁNH ĐẠO ngoài bạch văn hiển nhiên còn ẩn sấm ký là "mau tìm đến ông Hà học chánh đạo". HÀ là họ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, Đức Thể Nguyên của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, Giáo Tông Hữu Hình và Vô Vi của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN ĐẠO RA CẢM XÉT AI DUYÊN [Thiên Đạo trổ, xét duyên phận mỗi người]
LÒNG CON TRẺ KHẮP MIỀN BÁ TÁNH [cảm lòng con trẻ khắp muôn nơi]
QUY DÂN TỘC VỀ NƠI NHẬP THÁNH [gom dân tộc về nơi Thánh nhập cư độ]
ĐỘ NGŨ CHÂU AI THÁNH AI PHÀM. [độ khắp hoàn cầu, phân thánh phân ngôi]
[Khoán: Thiên Đạo Ra Quy Dân Tộc (VN) Về Nơi Thánh Nhập Độ Ngũ Châu, [phân] Ai Thánh Ai Phàm.]
NGỌC CƠ KIM DIỆU LÃNH LỊNH HOÀNG [nay lãnh lịnh Ngọc Hoàng diệu cơ ]
HOÀNG PHỤ ANH MINH GIẢI PHÂN BAN [anh minh Hoàng Phụ giải phân ban, thái thượng]
THƯỢNG THƯỢNG THÁI PHƯƠNG QUY CHUNG HƯỚNG [thượng chung quy phương hướng]
ĐẾ ĐẾ KỲ QUANG XUẤT SẴN SÀNG [kỳ quang đế đế xuất sẵn sàng]
PHỤ NGỌC KIM THÂN HẠ GIÁNG TRẦN [kim thân Ngọc Phụ hạ giáng trần gian]
HOÀNG MINH ANH ĐẠO CHIẾU SOI THÂN [đạo uyên thâm chiếu soi thân Minh Hoàng]
GIA THIÊN THÁI LÃO NGÀY THỐNG NHỨT [thiên gia thái Lão đợi ngày thống nhất]
GIA CHUYỂN VẬN HÀNH CHỌN HIỀN BAN. [ban chọn hiền Lão gia chuyển vận hành]
[Khoán: Ngọc Hoàng Thượng Đế Phụ Hoàng Gia Gia. Cơ Thượng Phụ Ngọc Đế Minh Thiên Chuyển.]
(Trích dẫn NGỌC KINH: TÂN ĐẾ ẤN VÔ THƯỢNG LẬP CHÁNH NGÔI, đàn giờ Tý ngày 27 tháng 2 năm Giáp Thìn (5/4/2024) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NGỌC MINH là tôn danh khác của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế. Và trong đoạn sấm ký này đã khải lộ rõ là Ngọc Phụ Huyền Thiên xuống trần trong một xác phàm ("Phụ Ngọc kim thân đã giáng trần"). Đến ngày Đại Đạo nhứt thống, Đức Ngài sẽ "chọn hiền ban". Lúc đó Đức Ngài cũng đã rất già rồi (thái lão). ANH 泱 tĩnh từ là sâu thẳm, mênh mông. ANH ĐẠO là Đạo sâu thẳm (uyên thâm). [Chú giải của người soạn.]
5.6
KIM PHONG HÀ QUẢN LẬP HOA ĐÀI [nay Sơn Hà quản lập đài Hoa]
HẢO KỲ DUYÊN KÝ TRẬN MỞ KHAI [đúng Kỳ duyên lành phó chúc mở khai trận pháp]
NHÃN QUANG CƯỚC THỦ TỀ TẢO TẬN [Đạo Thiên Nhãn hết lòng vì sanh chúng]
THĂNG GIÁNG TIÊN THIÊN ĐẶNG TIẾP HÀI. [Tiên Thiên lên xuống hồng trần tiếp gót xưa]
Chữ PHONG 峰 là ngọn núi, tương đồng với chữ SƠN. Chữ PHONG HÀ đồng nghĩa với chữ SƠN HÀ hay SƠN LIÊN, vì chữ 荷 này phát âm là HẠ hay HÀ và có nghĩa là Hoa Sen hay Liên. SƠN LIÊN là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Chữ KÝ là phó chúc, ủy nhiệm, ủy thác. TRẬN MỞ KHAI là mở khai trận pháp, hoằng truyền nền Đại Đạo Việt tại Kỳ Hoa (chữ Hoa Kỳ ẩn trong câu 1 và 2). KIM PHONG HÀ QUẢN LẬP HOA ĐÀI, HẢO KỲ DUYÊN KÝ TRẬN MỞ KHAI là nói ông Hà cũng là ông Sơn Liên quản lập hoa đài tại Hoa Kỳ (câu trên chữ Hoa câu dưới chữ Kỳ) có duyên lành được phó chúc (ủy thác) để mở khai trận pháp kỳ ba. NHÃN QUANG là con mắt chiếu sáng, biểu tượng của Đức Cao Đài. CƯỚC THỦ là chiết tự của chữ ĐẠO 道 gồm chữ Sước 辶 nghĩa là "đi, chạy" cận nghĩa với chữ CƯỚC nghĩa "chân để đi, đưa đường" (mượn chữ Cước nói chữ Sước) và chữ THỦ 首 nghĩa là "khởi thủy, đứng đầu". NHÃN QUANG CƯỚC THỦ có thể hiểu nôm na là "đạo con mắt". TỀ là sắp xếp công việc. TẢO là từ lâu. TẬN là hết lòng lo xong. TIẾP HÀI là tiếp nối công việc xưa (kiếp xưa). [Chú giải của người soạn.]
"ÂN THIÊN HỮU CHÚC CHỜ ỨC BẢY [được Thượng Đế ân sủng ủy thác bảy ức niên]
MỚI MỞ TIÊN CUNG LỘ BIẾT NGÀI [chờ tới lúc Tiên Cung mở lộ mới biết Đức Ngài]
MỘT CHỮ THÀNH NGUYỆN NAY CƠ HÉ [vì một chữ nguyện thành, nay thiên cơ hé chút ít]
THIÊN TIÊN XỨ CŨ TỎA HOA LÀI. [Hà Tiên xứ cũ danh thơm tợ hoa lài]
ĐẠI PHÁP HỒNG ÂN MAI ĐẶNG THÀNH [được Đại Pháp chắc chắn mai sau sẽ đặng thành]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
ÂN THIÊN hay Thiên Ân là ân sủng của Thượng Đế ban Cho. CHÚC là phó chúc, ủy nhiệm, phó thác. ỨC BẢY hay BẢY ỨC là nói thời gian được phó chúc là 7 ức niên, tức dài 700 ngàn năm. CƠ HÉ THIÊN hay HÉ THIÊN CƠ (chữ Thiên nằm ở câu dưới) tức là lộ một chút cho biết. TIÊN XỨ CŨ TỎA HOA LÀI là nói Hà Tiên cố hương (xứ cũ), vùng đất ngày trước nỗi danh là "đất Phật người hiền", danh thơm như hoa lài tỏa hương. [Chú giải của người soạn.]
"XUỐNG TRẦN BỐN ỨC TÀNG LINH HIỂN [Bốn ức nguyên nhân tất cả đều xuống thế trần]
DI LẠC PHẬT ĐƯƠNG KIM THÂN HIỆN [cùng Di Lạc Phật đang tại thế trong nhân thân]
PHẬT TỔ QUAN ÂM HỘI MỘT ĐƯỜNG [Phật Tổ Quan Âm Phổ Đà Sơn cùng một đàng]
CỬU DIỆU CHƯ LINH ĐỘ THÂU NHIÊN." [với Cửu Diệu Tinh Quân để độ thâu linh tàng]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
BỐN ỨC TÀNG LINH là bốn ức nguyên nhân đã được hồi cựu vị, hai ức đã được Nhiên Đăng Cổ Phật độ về thời Nhứt Kỳ Phổ Độ và hai ức được Thích Ca Mâu Ni Phật độ về thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nay cả bốn ức nguyên nhân lại phải trở xuống trần để tiếp tay Di Lạc Vương Phật để độ cho toàn bộ 92 ức nguyên nhân cùng trở về trong Kỳ Ba này. ĐƯƠNG KIM là hiện nay đang. CỬU DIỆU là Cửu Diệu Tinh Quân gồm Thái Dương, Thái Âm, Thái Bạch, Mộc Đức, La Hầu, Kế Đô, Vân Hớn, Thổ Tú, Thủy Diệu. NHIÊN là hiển nhiên, rõ ràng là như thế. CHƯ LINH ĐỘ THÂU NHIÊN là nói hiển nhiên là để độ chư tàng linh đem về ngôi xưa. [Chú giải của người soạn.]
"LỜI GIẢNG DẠY TÙY LAI CƠ GIÁNG [tùy cảnh xuất điển lai giáng cơ đàn giảng dạy]
NGƯỜI CÓ DUYÊN CÔNG QUẢ XÁ ÂN [ai có căn lành hiến công quả được ân xá, Đức Thánh]
THÁNH CHƠN PHÂN TÁNH, CHƠN TÁNH PHÂN [là chơn phân tánh giáng sinh Thiên Mệnh]
THI VƯƠNG PHÁP LỚN, THIÊN MẠNG TÁI." [chơn tánh phân đáo trần triển Vương Pháp lớn]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm DI LẠC PHẬT RA CỨU CHÚNG SANH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
5.7
"THỦ Ý HỮU QUI [vừa giữ ý vừa nương theo]
NHỨT THIÊN NHỨT LỘ [ngàn lần như một]
LAI HỘ PHÁP THIÊN [đến Cửa Pháp của Trời]
DIỆU HUYỀN VẠN PHÁP [vạn pháp ảo diệu sâu xa]
...
NGOẠT NGOẠT VÔ KỲ [tháng này qua tháng khác không định kỳ]
DIỆU LÝ ĐÁO THUYẾT [chu đáo thuyết giảng giáo nghĩa thâm sâu]
BẤT TUYỆT BẤT HÀ [liên tục không dứt, không khiếm khuyết]
XUÂN HẠ THU ĐÔNG [suốt bốn mùa xuân hạ thu đông]
CHIẾU ĐỒNG HẬU THẾ [soi sáng đồng khắp những thế hệ mai sau]
ĐẠI ĐẾ VƯƠNG HOÀNG [Đại Đế Vương Hoàng]
THIÊN VẠN VẠN THIÊN." [Đức Thiên Phật, Phật Thiên]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm ĐẠI ĐỒNG VƯƠNG PHẬT CHÁNH THẤT VIỆT NAM, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chữ THỦ Ý là giữ ý hoặc nhiếp tâm, nằm trong 4 chữ AN BAN THỦ Ý. AN BAN là niệm hơi thở. THỦ Ý là nhiếp tâm. "AN BAN là đại thừa của chư Bụt dùng để tế độ chúng sinh lênh đênh trên biển khổ" (trích lời Thầy Tăng Hội viết trong tựa kinh An Ban Thủ Ý). HỮU QUY là lại vừa nương theo. THỦ Ý HỮU QUI là vừa giữ ý lại vừa nương theo. NHỨT THIÊN là một ngàn lần hoặc là ÔNG TRỜI (Thiên Nhứt). NHỨT LỘ là một lối hoặc một lần hé lộ. NHỨT THIÊN NHỨT LỘ là ngàn lần cũng như một hoặc là Thiên Trời (Thiên Nhứt) một lòng (nhứt tâm) hé lộ. HỘ là cửa một cánh (MÔN là cửa 2 cánh) hoặc chỉ nơi lui tới. LAI HỘ PHÁP THIÊN là đến cửa Pháp của Trời. DIỆU là mầu nhiệm, thần kỳ. HUYỀN là áo diệu, sâu xa. DIỆU HUYỀN hay HUYỀN DIỆU là "Huyền chi hựu huyền chúng diệu chi môn" (Trích dẫn Đạo Đức Kinh, Lão Tử). DIỆU HUYỀN VẠN PHÁP là Vạn pháp mầu nhiệm thần kỳ, áo diệu sâu xa. THIÊN VẠN, VẠN THIÊN là nói Đấng Thiên Phật hay Đấng Phật Thiên, cũng là Đức Di Lạc Phật Vương. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN THỜI ĐỊA LỢI [đã đến lúc đất trời đều muốn thấy]
TIẾN TỚI ĐẠI ĐỒNG [nhân loại phải tiến tới xã hội đại đồng]
TRẦN HỒNG LẬP LẠI [lập lại trần hồng thời Thượng Ngươn Thánh Đức]
MẪU BÀY SẮP TIẾP [Kim Mẫu Diêu Trì sắp bày tiếp nối trong Kỳ ba]
NAM VIỆT NON SÔNG [Đức Ngài hóa sanh trên non sông Nam Việt]
ĐẠI ĐỒNG VƯƠNG PHẬT [là vị Vương Phật của cộng đồng ba cõi Thiên, Địa, Nhân]
CHÍNH THẤT VIỆT NAM [chính thất là người Việt Nam dòng giống Lạc Hồng]
KHẮP NĂM CHÂU TRỔ [giáo pháp của Phật Vương sẽ trổ khắp hoàn cầu]
ĐÁO LỘ THÁNH TIÊN [năm châu đều thấy được Thánh Tiên Phật hiện thế]
ĐỨC DUYÊN TÀI ĐẠO [đức duyên tài đạo đều có đủ]
NGÔI GIÁO HIỆN TIỀN [sẽ quy về Ngôi Giáo hiện tiền]
THIÊN TIÊN ỨNG HIỆN [Đấng Thiên Tiên Đạo Sư ứng hiện]
NHỦ TRUYỀN KỲ NHỨT [lời dặn dò: khó tin như huyền thoại]
CẢNH PHẬT DIỆU HUYỀN [một cảnh diệu huyền Phật Vương tại thế]
THIÊNG LIÊNG KHỞI LẬU" [Thiêng Liêng bắt đầu vén màn cho thấy]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm ĐẠI ĐỒNG VƯƠNG PHẬT CHÁNH THẤT VIỆT NAM, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NHỦ là dặn dò ân cần. TRUYỀN KỲ là những truyện lạ khó tin được lưu truyền. NHỨT CẢNH PHẬT DIỆU HUYỀN là khẳng định sẽ có một cảnh Phật diệu huyền. THIÊNG LIÊNG KHỞI LẬU là Thiên Thượng vén màn cho nhân gian thấy biết. [Chú giải của người soạn.]
5.8
"ÂN MAY SANH CHÚNG DI LẠC PHẬT [ân may sanh chúng gặp Di Lạc Phật]
TƯƠNG HUYỀN GIAN THẾ THUYẾT CƠ MẬT [cũng là Huyền Thiên dưới thế, thuyết cơ mật]
CHI HỮU CHI VĂN ĐÀN MỘT TIẾNG [có hữu hình có cả điển thi, khảy một tiếng đàn]
TIÊN PHẬT HẠ ĐÀNG THẾ PHÀM BÌNH... [là Tiên Phật xuống trần, thế phàm đặng bình yên]
THÂU CHI MẠNG HẠ ĐỀ DI LẠC [Di Lạc xuống bút đề thơ ký gởi lời từ mẫn]
KHOÁN TỪ NGÔN LỊNH THỦ BẮT XA [lệnh giao tận tay Ta nắm giữ từ lâu xa]
CHUNG TỌA THỊ MÀN BA HÉ THẬT [ngồi nhìn màn ba thật sự là tới lúc chung cuộc]
CỨU NHÂN SINH ĐÀO CÚC HỒNG CA...[các tinh hoa ráng ngăn đở cứu giúp nhân sinh]
PHÀM XUỐNG THẾ LẠC TA DI HỮU [xuống thế phàm Di Lạc Ta thân hữu hình]
ĐÁO TIỀN MÔN VÃN CỨU SINH LINH [đến trước Cửa Đạo để cứu vãn sinh linh]
ĐƯƠNG CÔNG ẨU LAI ĐÌNH LỘ NGỌC [đang công vụ Tây Phương, tới Ngọc Đình lộ diện]
ĐẶNG KHIẾT HÀI GẮNG PHÚC NGÀY NAY." [đặng dìu dắt con trẻ có phúc phận ngày nay]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
CA là ngăn chận, hạn chế. ĐÀO CÚC HỒNG là nói các vị Liên Hoa hay Thiên Hoa xuống thế, gọi chung là tinh hoa giữa đời. ẨU là Âu Châu. Âu Châu đây không có ý nói riêng Europe mà nó nói toàn thể Phương Tây, tức là tất cả đất nước nằm ở Tây Bán Cầu, vì kinh tuyến 180 độ nằm giữa Thái Bình Dương chia quả địa thành Tây và Đông. CÔNG là công vụ, công cán. KHIẾT là dắt dìu. HÀI là giầy hoặc hài nhi tức con nít. NGỌC ĐÌNH là chỗ Tòa Đình của Bạch Ngọc Cung dưới thế. LỘ NGỌC HÀI là lộ dấu chân của Di Lạc. [Chú giải của người soạn.]
"NGẠO TỤC VINH THI ĐỀ TỐ HOẠT [coi thường vinh nhục chỉ lo triết giải thiên thơ]
ĐÁO TÂY KỲ NGẠN KHIẾT LỜI CA [trở về miền Tây Hoa Kỳ nghiêm túc trạm trổ lời thi ca]
TÂY MÔN VIÊN HẠ ĐẰNG KHẢI KHÚC [sao chép lại cho Tây môn Trường Thiên lưu giữ]
TIẾT LỘ TRẦN HỮU PHÚC MUÔN DÂN." [lộ cho trần biết đây là phúc của muôn dân]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NGẠO là coi thường. TỤC VINH là vinh hoa thế tục. THI ĐỀ là triết giải thi thơ. TỐ HOẠT là thực hiện công việc. ĐÁO TÂY KỲ là đến miền Tây Hoa Kỳ, ý nói đến California của xứ sở Kỳ Hoa. KHIẾT LỜI CA là trang trọng nghiêm túc (ngạn) chạm trổ (khiết) lời đạo ca. TÂY MÔN VIÊN HẠ là Tây Viên Môn Hạ, ý nói giáo đồ của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên tại Phương Tây, Nam California. ĐẰNG là sao chép lại. KHẢI KHÚC là những đoạn đạo ca được khải lộ. [Chú giải của người soạn.]
"PHIÊU PHIÊU ĐÀN PHÍM CÀN CUNG LỘ... [bồng bềnh phím đàn Cung Thiên khải lộ]
PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH...[Phật đang tại hồng trần giải thoát linh]
NHÂN SINH ĐỒNG CHUNG ĐỒNG TẠO NGHIỆP [cũng là sinh nhân chung đồng cộng nghiệp]
DI LẠC PHẬT VƯƠNG TỎA ÁNH HÀO...[Di Lạc Phật Vương tỏa sáng ánh hào]
KIỀN KIỀN TAM THỂ ĐÀI THIÊN CHỦ [thời thừa lục long ba thể Ngọc Đài Thiên Chủ]
LẠC LẠC THÀNH THÂU PHÁT ĐẠI ÂN." [thong dong tự nhiên thâu phát đại hồng ân]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm PHẬT ĐƯƠNG HỒNG TRẦN GIẢI THOÁT LINH, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
KIỀN KIỀN là Quẻ Bát Thuần Càn 6 hào dương, Nguyên Khang Hanh Lợi Trinh chi tượng: tượng vạn vật có khởi đầu, lớn lên, toại chí, hóa thành; Giảng Giải: (1) Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng; (2) Thoán Truyện cho rằng (a) quẻ này mang ý nghĩa về vũ trụ: Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa là rất cương kiện (tượng trưng cho trời), mà Trời thì có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật, có đức “hanh” vì làm ra mây mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính giữ nguyên khí cho thái hòa (cực hòa); (b) bậc Thánh Nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. TAM THỂ là Thể CHA (thể Đấng Tạo Hóa), thể CHÚA (thể Đấng Càn Khôn Chủ tể), thể THẦY (thể Đấng Đại Pháp Tôn). ĐÀI THIÊN CHỦ là chủ của Bạch Ngọc Đài, đài cao trên Bạch Ngọc Cung, là Cao Đài nơi Chí Tôn ngự triều. [Chú giải của người soạn.]
5.9
"GIÁNG LÂM PHÀM LỊNH BỔN HOÀNG NGHI [Cha Hoàng ban lịnh giáng lâm phàm]
LUẬT CÀN KHÔN VÔ HÌNH Y CHỈ [Thiên Luật Vô Hình phải y chỉ khâm tuân]
CHÍ TÔN MINH TÒA LỊNH OAI NGHI [Đấng Chí Tôn Tòa Lịnh oai nghiêm]
QUÂN XUẤT XỨ MỘT ÂM CỔ BẢN... [một phiên bản xưa Đế Con rời thiên xứ]
KHẮP TÂY PHƯƠNG HUYỀN LỊNH THIÊN HOÀNG [Thiên Hoàng huyền lịnh khắp tam giới:]
KHAI MÙI VỊ HỒI KỲ CHÓI DẠNG [đến kỳ Minh Thiên trở về Tây Phương khai giáo]
ĐỊNH CHÁNH KHAI NHIỆM KỲ CỐ GẮNG [đã định nhiệm kỳ "chánh khai" nên hãy cố gắng]
VẠN LINH THẦN THỤ TÚC TRI ÂN [vạn vạn linh thần thọ đủ ân tri]
PHẬT MỞ LỰC VÔ VI TRẦN THẾ." [Đức Phật Ngài mở lực vô vi nơi trần thế]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm THAY THẤT CỔ AN BAN PHÁP ĐIỂN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Chữ MÙI 未 còn phát âm là VỊ nghĩa "chưa từng, chưa hề". Chi thứ tám trong 12 địa chi là MÙI hay Dương, con Dê. Trong tiếng Hán Việt, chữ DƯƠNG con dê đồng âm với chữ DƯƠNG 昜 mặt trời. Vì thế, sử dụng trong sấm ký cụm chữ KHAI MÙI VỊ cũng có thể nói là tương đồng với KHAI DƯƠNG hay mặt trời mọc. Và như đã nói qua "mặt trời mọc" là sấm ngữ chỉ Minh Thiên. CHÓI DẠNG là nói hình dạng chói chang cũng là những chữ diễn tả mặt trời chiếu sáng. KHAI MÙI VỊ CHÓI DẠNG HỒI KỲ TÂY PHƯƠNG hay KHAI DƯƠNG CHÓI DẠNG HỒI KỲ TÂY PHƯƠNG nghĩa là mặt trời chiếu sáng Tây Phương trở lại, cũng là hàm ý thời kỳ Minh Thiên trở lại Tây Phương. Minh Thiên là danh của Ngọc Đế dưới thế, tức danh của Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Ngôi Hai Tây Phương Ki Tô Giáo Chủ từng huyền khải sẽ trở lại vào ngày Phán Xét. Nay là thời kỳ Ngôi Hai trở lại, thời kỳ của Thầy Nhân Thập trở lại. Trạng Trình gọi Ngôi Hai là Thầy Nhân Thập, tức vị Thầy bị đóng đinh trên thập tự giá, lấy hình ảnh Ngôi Hai Jesus (nhân) bị đóng đinh trên thánh giá hình thập tự (thập). Nhân vật lịch sử thì khác nhau, có Ngôi Hai Phương Đông và Ngôi Hai Phương Tây, có ba trào Ngôi Hai khác nhau, có Ngôi Hai danh Minh Thiên và Ngôi Hai danh Joshua (Jesus) nhưng thực ra LINH ĐIỂN NGÔI HAI thì chỉ có một, chỉ là hiện thế ở những thời điểm khác nhau ở những không gian khác nhau được thế gian đặt danh tánh khác nhau mà thôi. Cho nên Trào Tam Xuất Thế cũng chính là hiện thân trở lại của Ngôi Hai đúng với huyền khải năm xưa của Thiên Chúa (nên nhớ là Jesus chỉ huyền khải thời điểm trở lại là hai ngàn năm sau nhưng không nói sẽ hạ sanh ở đất nước nào, quốc tính nào, danh tánh gì). Với tín đồ Ki Tô Giáo thì Đức Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai. Đối với tín đồ Cao Đài, Thiên Khai Huỳnh Đạo, Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, Bửu Sơn Huỳnh Đạo, Bửu Sơn Kỳ Hương... và các mối đạo xuất phát từ nước Việt, thì Ngôi Hai Thiên Chúa và Đức Thiên Phật là cùng MỘT LINH ĐIỂN. Huyền Không Chí Thượng cũng khải lộ "Đức Phật Ngài mở lực vô vi nơi trần thế." Sấm ký Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba Thới cũng khải lộ như thế. Hình tượng của Di Lạc trên nóc Tòa Thánh Tây Ninh cũng khải lộ như thế. Trạng Trình cũng khải lộ như thế (Có "Chúa" Thầy Nhân Thập đi về + Thủy Trung tàng "Phật" Bảo Cái). [Chú giải của người soạn.]
"KHAI LỐI THẲNG GIÁP VÒNG BỐN BỂ... [giáp vòng thế giới vạch khai chánh đạo]
VÂN DU KHẮP NẺO LẤP NẮNG SƯƠNG [vân du khắp nẻo trải nắng dầm sương]
LỚP DIỆN TUỒNG HUỲNH THƯƠNG MIỀN THẾ [lớp tuồng tới Huỳnh Long vì thương thế]
TÁI NẠN TỚI ĐÂY DI THỂ [tái xuống trần thân Phật đi trong khổ nạn]
PHẬT ĐẠO TA BÀ NAM ĐẾ CƠ MÀN. [vì Đạo Ta Bà Nam Đế màn trời chiếu đất chịu cơ hàn]
GIÓ DẬP SÓNG BIỂN TRẦN HỒ CHUYỂN [sóng gió biển trần dồn dập, cho nên chuyển]
MẶT TRỜI MỌC MẤY PHƯƠNG, SUY DIỄN: [Minh Thiên một thân đôn đáo Đông Tây]
PHẬN VÔ VI PHÂN THỂ TẠO RA [suy diễn phận vô vi phân tánh hóa thân]
THAY THẤT CỔ AN BAN PHÁP ĐIỂN. [thay bảy Cổ Phật an ban pháp điển]
[Khoán: Chuyển Mặt Trời Mọc Mấy Phương. Phận Vô Vi Phân Thể Tạo Ra, Thay Thất Cổ An Ban Pháp Điển.]
TẦM GÓC ĐỘ VÀO VÒNG HẠNH PHÚC [tìm phương đưa chúng vào vòng hạnh phúc]
GỞI TRỌN LÒNG THẮM ĐƯỢM ẨN TÀNG...[gởi trọn tấm lòng son dấu kín bên trong]
XÂY BỔN TUỒNG HAI CHỮ AN DÂN [ráng xây bổn tuồng vì hai chữ an dân]
XUÔI CẢNH NGƯỢC THUYỀN NAN THẾ SỰ." [xuôi ngược cảnh thuyền, thế sự ôi khó!]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm THAY THẤT CỔ AN BAN PHÁP ĐIỂN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HỒ là cho nên. MẶT TRỜI MỌC là ám chỉ Minh Thiên như đã từng giải thích rồi. CHUYỂN MẶT TRỜI MỌC MẤY PHƯƠNG là chuyển Đức Ngài Minh Thiên thực hiện công vụ bên Đông Phương (địa điểm chánh là tại Việt Nam) lẫn bên Tây Phương (địa điểm chánh là tại Caifornia, Hoa Kỳ). THẤT CỔ là nói 7 vị Cổ Phật trong quá khứ. Trong Kinh Ứng Kiếp có nói: “Hỗn độn sơ khai, định ra mười vị Phật chưởng giáo bàn 'Thất Phật Trị Thế, Tam Phật Thâu Viên'. Thất Phật Trị Thế gồm có (1) Xích Ái Phật, (2) Sanh Dục Phật, (3) Giáp Tam Xuân Phật, (4) Dậu Trường Canh Phật, (5) Không Cốc Thần Phật, (6) Long Dã Thị Phật, (7) Kế Thiên Phật. Bảy vị này là Thất Cổ Phật. Tam Phật Thâu Viên gồm có (8) Nhiên Đăng Cổ Phật, (9) Thích Ca Mâu Ni Phật, (10) Di Lạc Cổ Phật. Thời kỳ Thanh Dương thì chưởng Thiên Bàn là Nhiên Đăng Cổ Phật, chưởng Đạo Bàn là Phục Hy Cổ Phật, khảo Đạo là A Linh Vương, chủ trì mạt hậu thâu viên là Diêu Trì Kim Mẫu xuống thế tên Lão Mẫu. Hồng Dương Kỳ thì chưởng Thiên Bàn là Thích Ca Văn Phật, chưởng Đạo Bàn là Tứ Chánh Văn Phật (tức Khương Thái Công- Khương Tử Nha), khảo Đạo là Thân Công Báo, chủ trì mạt hậu thâu viên là Tây Vương Thánh Mẫu. Bạch Dương Kỳ có thể gọi là mạt kiếp. Trong thời Bạch Dương Kỳ chúng sanh tuy rằng đã tích lũy ác nghiệp, có rất nhiều nghiệt chướng, nhưng người thiện cũng có nhiều. Thượng Đế đại từ đại bi, bác ái hết mức, nào nhẫn tâm để thiện ác bất phân minh, ngọc đá cùng thiêu, cho nên lần thứ ba giáng cho Đại Đạo, Nho giáo ứng vận, phổ độ Tam Tào, phái Di Lặc Tổ Sư chưởng Thiên Bàn, Thủy Hỏa hai tinh tử là Tế Công Hoạt Phật và Nguyệt Tuệ Bồ Tát, giáng thế làm Cung Trường Tổ, Tử Huệ Tổ chấp trưởng Đạo bàn. Khảo Đạo là A Tu La Vương, chủ trì mạt hậu thâu viên là Trung Hoa Thánh Mẫu. Người thành Đạo là 96 ức nguyên nhân, tới dự Long Hoa Đại Hội đồng ghi tên vào 'Trùng Chỉnh Thiên Bàn', hưởng thanh phước và hồng phước 10 ngàn 800 năm." [Chú giải của người soạn.]
Toàn bộ nội dung sấm thi 5.9 khải lộ rất nhiều chi tiết về việc Đức Phật Vương Di Lạc xuống thế. Ngài nhận lịnh của Cha Thiên Hoàng hạ phàm thực thi sứ mạng (giáng lâm phàm lịnh bổn Hoàng Nghi), quay về Phương Tây (khắp Tây Phương huyền lịnh Thiên Hoàng, khai Mùi Vị hồi kỳ chói dạng) vạch khai chánh đạo (giáp vòng thế giới vạch khai chính đạo) xuôi ngược ngược xuôi dòng đời chịu bao gian khó (xuôi ngược cảnh thuyền, thế sự ôi khó!), một thân thao lược hết Đông tới Tây (Minh Thiên một thân đôn đáo Đông Tây), cũng vì Thiên Mệnh xuống thế (phận vô vi phân tánh hóa sanh) thay mặt 7 vị Phật Cổ ban pháp điển cho thế (thay thất phật an ban pháp điển), tìm phương dắt chúng vào đường hạnh phúc (tìm phương đưa chúng vào vòng hạnh phúc) xây tuồng giác chúng an dân (ráng xây bổn tuồng vì hai chữ an dân). Vì thương chúng (gởi trọn lòng thắm đượm ẩn tàng) cho nên Phật xuống thế đi trong khổ nạn cõi Ta Bà (thương miền thế, tới đây di thể Phật đạo Ta bà Nam Đế cơ hàn). NAM ĐẾ là nói về tiền kiếp của Phật từng là Vua Lạc Long của Nam Bang Hồng Lạc, sẽ được giải trình sau. [Chú giải của người soạn.]
5.10
"RÕ XEM THÂN CHIẾU ĐIỂN OAI THẦN [rõ xem điển Oai Thần chiếu xác thân]
GIÚP CHÁNH PHÁP TIẾN DẦN BỨC PHÁ... [giúp chánh pháp tiến dần tới đột phá]
LỘNG ĐÀI LIÊN PHÍA CẢNH XA XA [lồng lộng cảnh liên đài phía xa xa]
GIẢI TRÌNH THƠ CHƯƠNG TÒA THIÊN CẢNH [Chương Tòa giải trình thơ thiên cảnh]
PHÁP BẢO KHAI HẠN SẮP THUYỀN ĐĂNG...[hạn sắp khai pháp bảo thuyền đạo đăng quang]
TÙNG SANH GIÁP PHỈ TRÍ TÀI [cội tùng sanh Giáp Mộc phỉ trí tài]
VÔ SÔNG THUYẾT NGẠN ĐÁO LAI CHI HÀI [gót hài đáo lai bỉ ngạn, Hà thuyết đạo vô vi]
VŨ NGUYÊN MỘC HỮU CHI GIAI [Nhân Thập có từ thưở khai nguyên vũ trụ]
ĐẮC THỜI LAI VĨ HUÊ KHAI NHỨT TIỀN...[đến lúc một đóa hoa đẹp nở trước sân tiền]
LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN." [Vô Cực Huyền Thiên Di Lạc tái lâm truyền]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Nếu hai chữ TÙNG SANH lấy ra từ trong thành ngữ "Thảo Mộc Tùng Sanh" thì nó có nghĩa là "Cây cỏ tụ tập sinh sôi." Nhưng nếu là TÙNG SANH GIÁP ... MỘC thì ý của nó có thể là (1) Cội Tùng sanh năm thiên can GIÁP ngũ hành MỘC, hoặc (2) Thuận theo tái sanh năm thiên can GIÁP hành MỘC. PHỈ TRÍ TÀI là không chỉ có trí tài. THUYẾT [BỈ] NGẠN ĐÁO LAI CHI HÀI là bước xưa trở lại đưa người qua sông. VŨ NGUYÊN là vũ trụ khai nguyên. MỘC chiết tự là NHÂN THẬP, là nói Thầy Nhân Thập tức Thiên Chúa Ngôi Hai. GIAI là cùng một lượt với nhau. VŨ NGUYÊN MỘC HỮU CHI GIAI là nói Thầy Nhân Thập có từ thuở khai nguyên vũ trụ. ĐẮC THỜI VĨ HUÊ KHAI NHỨT TIỀN là nói đến lúc đình tiền nhứt huê khai (đến lúc một đóa hoa đẹp nở trước sân). [Chú giải của người soạn.]
"HUYỀN LÂM TIÊN CẢNH MỘT BẦU KHÔNG [trăng non tiên cảnh một bầu không]
TỰA NGUYỆT TRÒN VỀ CẢNH LAI BỒNG [tợ trăng tròn về cảnh Lai Bồng]
NGOẠN NHÔ TẠO HÓA DÀNH MỘT CẢNH [Tạo Hóa dành ló cảnh ngoạn mục]
MỘT BẦU HƯ KHÔNG MÂY XANH TRONG." [một bầu hư không mây xanh trong]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HUYỀN là trăng thượng huyền, giai đoạn đầu khi mặt trăng và mặt trời có cùng kinh độ hoàng đạo, là lúc mặt trăng mới hiện hình liềm như vòng cung, có thể nhìn thấy ở vị trí thấp trên đường chân trời phía tây ngay sau khi mặt trời lặn và trước khi mặt trăng mọc. Đồng thời HUYỀN cũng ẩn nghĩa sấm ký là Huyền Thiên. Đoạn sấm thi trên là một ẩn dụ về sự hóa thân xuống thế của Huyền Thiên và sứ mạng mà Đức Ngài phải thực hiện. Trong giai đoạn đầu là "trăng non" và đến khi tỏa sáng là lúc "trăng tròn" và "cảnh ngoạn mục" là Đấng Tạo Hóa đã dành riêng cho Đức Ngài. [Chú giải của người soạn.]
"THÚ DƯ PHANG CẢNH CANH KHUYA LẠNH [ý theo cảnh thuyền du trên sông đêm lạnh]
GIẢI QUẢ QUA SÔNG NGÀN DẬM THÀNH [ngàn bước chân thành rồi, giải quả qua sông]
CHỐN TRỜI CAO THẨM THIÊN ĐƯỜNG SÁNG [thấy Thiên Đường Sáng chốn trời cao thẩm]
ẨN PHÀM HUYỀN DIỆU NGUYỆT THÀNH HOÀNG. [ẩn phàm huyền diệu trăng hóa vàng]
HUYỀN CƠ RẼ CHỮ PHƯƠNG NAM THÁNH [huyền cơ kẽ vạch chữ Phương Nam Thánh]
CHƯA ĐỊNH CHƯA PHÂN TRỞ CƠ ĐÀNH [bây giờ chưa phân nên phải đành]
RÁN NHÌN GỐC CỘI CHỪNG NĂM HỈ [rán dõi theo Phương Nam Thánh vài năm sẽ thấy]
MÁY TẠO ĐỔI XOAY CHẲNG ĐẶNG LÀNH." [Máy Tạo chuyển xoay chẳng đặng yên lành]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm LÂM TRUYỀN TÁI KHỞI VÔ HUYỀN LẠC THIÊN, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THÚ là ý vị. DƯ là nương theo. PHANG còn đọc là PHẢNG là cái du thuyền, như trong thơ Bạch Cư Dị "Đông chu tây phang tiễu vô ngôn, duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch." Dịch là: Những cái du thuyền bên đông bên tây lặng lẽ đi, giữa dòng chỉ thấy vầng trăng thu phai nhạt). THÚ DƯ PHANG CẢNH CANH KHUYA LẠNH là nói ý theo cảnh thuyền du trên sông đêm lạnh. CHỐN chỉ không gian. THỜI chỉ thời gian. CHỐN THỜI CAO THẲM là nói thời không vô hạn vô biên. CHỐN THỜI CAO THẲM THIÊN ĐƯỜNG SÁNG là nói cõi thời không vô hạn vô biên có một Thiên Đường Sáng. ẨN PHÀM HUYỀN DIỆU là nói huyền diệu núp sau cái phàm tục. NGUYỆT THÀNH HOÀNG là hình ảnh trăng hóa ngập ánh vàng. ẨN PHÀM HUYỀN DIỆU NGUYỆT THÀNH HOÀNG thì ý thứ nhứt là "huyền diệu chứa đầy trong sắc tục, trăng hóa ánh vàng chiếu muôn nơi." và, ý thứ hai là "Huyền Hoàng ẩn phàm thành diệu nguyệt.", cả hai ý đều ám chỉ Huyền Thiên Thượng Đế, tá danh Di Lạc, hóa thân xuống chốn phàm trần như vầng trăng lặng lẽ chiếu ánh vàng soi sáng khắp nhân gian. [Chú giải của người soạn.]
Toàn bộ nội dung đoạn sấm thi 5.10 chứa những điều được Thiên Thượng khải lộ về hóa thân của Đức Huyền Thiên dưới thế (Chương Tòa giải trình thơ thiên cảnh). Là Di Lạc Huyền Thiên dưới thế (Vô Cực Huyền Thiên Di Lạc tái lâm truyền). Ẩn trong lời sấm ký sẽ tìm thấy lờ mờ nguồn gốc (Nhân Thập có từ thưở khai nguyên vũ trụ), thế danh (gót hài đáo lai bỉ ngạn, Hà thuyết đạo vô vi), thời điểm xuống thế (năm Giáp Mộc), sứ mạng (giúp chánh pháp tiến dần đột phá), những thử thách trên hành trình (Tạo Hóa dành ló cảnh ngoạn mục), thành tựu (đến lúc một đóa hoa đẹp nở trước sân ... ngàn bước chân thành rồi, giải quả qua sông), cách sống và tu tập trong thế gian (ẩn phàm huyền diệu trăng hóa vàng), thời điểm xuất lộ (hạn sắp khai pháp bảo thuyền đạo đăng quang). Và một khi đã xuống thế và bắt đầu hành trình gian nan thì Đức Ngài được ví như vầng trăng non thượng huyền (trăng non tiên cảnh một bầu không) và tới cuối hành trình và trở về ngôi xưa thì trăng đã tròn đầy và tỏa sáng (về cảnh lai bồng tợ trăng tròn). [Chú giải của người soạn.]
5.11
"ĐỨC THIÊN HOÀNG HẠ ĐỀ KHÁN CAO [Đức Hoàng Thiên Thượng Đế đã ban lệnh]
TÂN CẢI CÁCH GIÁO TRUYỀN THIÊN ĐẠO [giáo truyền Thiên Đạo đổi mới thế gian]
THẠNH HÒA BÌNH PHẬT ĐẠO NGHÌN THU [tạo nền Phật Đạo ngàn năm hòa thạnh]
AN LẠC HÓA CẢNH TRẦN DI BẢO." [Di Lạc an hóa cảnh trần Phật lưu danh]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, phẩm TÂN CẢI CÁCH GIÁO TRUYỀN THIÊN ĐẠO, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
BẢO là Phật Bảo, là nói Di Lạc Phật, Đức Ngài sẽ giáo truyền Phật Đạo trong Kỳ Ba là thời kỳ Thiên Đạo được giáo truyền, vì thế sấm ký Kim Cổ Kỳ Quan của Ông Ba Thới mới có huyền khải "Nhị Thiên túc vật ngoại Phật nội Trời". [Chú giải của người soạn.]
Qua những đoạn trích dẫn khá dài, những lời sấm ký huyền khải rất nhiều điều về Đức Phật Vương Di Lạc. Chúng ta có thể rút ra vài điều quan trọng như sau:
1. Đức Phật đang có mặt tại trần cứu độ nhân sanh trên toàn cầu, "Di Lạc Phật ra cứu chúng sanh" và cứu vớt 92 ức nguyên nhân, tức tàng linh, đã xuống thế từ lâu vẫn chưa về ngôi xưa, "Phật đương hồng trần giải thoát linh".
2. Đức Phật xuống trần khai Quốc Đạo và mở Hội Long Hoa phong vị cho hiền tài tuấn kiệt đạo đức được chọn, "Long Hoa Mở Hội Khai Quốc Đạo".
3. Đức Phật thay mặt 7 vị Cổ Phật ban bố pháp bảo cho thế trần, thông qua kim thân của Đức Ngài các vị Cổ Phật có thể ẩn mật ban pháp điển cho thế gian, "thay Thất Cổ an ban pháp điển".
4. Đức Phật là người Việt, giáng sanh trên đất Việt, là vị Vương Phật của ba cõi Đại Đồng, "Đại Đồng Vương Phật chánh thất Việt nam".
5. Đức Phật thật ra là hóa thân của Huyền Thiên Thượng Đế xuống thế để lập lại cõi trần, "Lâm Truyền Tái Khởi Vô Huyền Lạc Thiên".
6. Đức Phật truyền đạo Tứ Ân dạy dân tu hiền lập đức và đồng thời mở cửa bí mật hồng truyền Đại Pháp Vô Vi lập ngôi chánh đẳng giác vô thượng, "Đại Pháp hồng ân mai đặng thành" và "Tân Đế ấn Vô Thượng Lập Chánh Ngôi".
7. Đức Phật xuống thế giáo truyền Thiên Đạo để đổi mới đạo pháp Kỳ Ba và đổi mới thế gian, thành lập Thánh Đức Tân Dân, "Tân Cải Cách Giáo Truyền Thiên Đạo".
8. Đức Phật cũng chính là Thiên Chúa Ngôi Hai trở lại sau hai ngàn năm, đúng như lời huyền ký năm xưa, "một phiên bản xưa Đế Con rời Thiên xứ... đến kỳ Minh Thiên trở về Tây Phương khai giáo".
“Và Ngài đã đem họ ra khỏi cảnh gian truân. Ngài khiến bão yên lặng, sóng biển yên lặng. Sau đó, họ vui mừng vì họ được yên tĩnh, vì vậy Ngài đã hướng dẫn họ đến nơi trú ẩn mong muốn của họ, đến bến cảng an toàn. Hãy để họ cảm tạ Đức Giê-hô-va vì sự nhân từ của Ngài, Và vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm cho con cái loài người!” Mượn lời Thi Thiên 107:38-31 để tán thán công đức Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế xuống thế tá danh Di Lạc trần gian. [Chú giải của người soạn.]
5.12
"NGỌC PHÁP KỲ BA MỘT ĐẠO KHAI [Chơn Pháp Bạch Ngọc Kỳ Ba một đạo khai]
HOÀNG THIÊN HẬU THỔ GIÁP CAO ĐÀI [tiếp nối Cao Đài của Hoàng Thiên Hậu Thổ, Thầy]
THƯỢNG NGƯƠN THẦY LẬP THIÊN TRƯỜNG ĐẠO [lập Thiên Trường Đạo ngươn thượng]
ĐẾ TỎA KIM QUANG HÓA BỬU ĐÀI. [Đế Chúa tỏa rực kim quang hóa bửu đài]
[Khoán thủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế.]
THIÊN PHẬT HOẰNG DƯƠNG CHÁNH ĐẠO NÀY [Đức Thiên Phật hoằng dương]
NHÃN TÂM KHAI NGỘ KỂ TỪ NAY [chánh đạo này, khai ngộ nhãn tâm kể từ rày]
HUYỀN VI ĐẠI CHUYỂN THAY TRỜI ĐẤT [đất trời thay đổi huyền vi dịch chuyển lớn]
KHÔNG TÁNH ĐẠO HUỲNH BỬU PHÁP KHAI." [khai thị pháp bảo huỳnh đạo vô vi]
[Khoán thủ: Thiên Nhãn Huyền Không. Hoằng Khai Đại Đạo.]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
NGỌC PHÁP là Chơn Pháp của Ngọc Hư Cung. HOÀNG THIÊN HẬU THỔ là CHA TRỜI Thiên Hoàng, HẬU THỔ là MẸ ĐẤT Diêu Trì Địa Mẫu. GIÁP là liền kề, tiếp biên. Bốn câu đầu ý nói THIÊN TRƯỜNG ĐẠO là CHƠN PHÁP NGỌC HƯ CUNG liền kề một ĐÀI CAO chí thượng, cùng MỘT NỀN ĐẠI ĐẠO do Cha Thượng Đế, Mẹ Diêu Trì lập ra. Tuy nhiên, CAO ĐÀI TAM KỲ PHỔ ĐỘ là CAO ĐÀI HỮU HÌNH chịu trách nhiệm phổ độ nhân sinh nước Việt còn CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM, dưới danh xưng Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên khai mở tại Hoa Kỳ năm 2017, chịu trách nhiệm hoằng hóa CHƠN PHÁP NGỌC HƯ trong KỲ BA thời Thượng Ngươn Thánh Đức. CHÁNH ĐẠO NÀY là nói Chơn Pháp Kỳ Ba của Cung Ngọc Hư, Điện Linh Tiêu, Bạch Ngọc Kinh. BỬU PHÁP hay PHÁP BẢO bao gồm hiển pháp (thánh giáo, kinh, kệ, giảng, thiên thơ đồ trận) và mật pháp (nội truyền tâm pháp, phương pháp luyện đạo). KHÔNG TÁNH là nói tánh không của Thiên Đạo, tức là nói hai chữ Vô Vi. KHÔNG TÁNH ĐẠO HUỲNH BỬU PHÁP KHAI là nói khai thị pháp bảo huỳnh đạo vô vi. [Chú giải của người soạn.]
THIÊN PHẬT là một đấng xuống thế hiện thân Ông Phật nhưng cốt là Ông Thiên Chúa Ngọc Đế. Trong cuốn Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba Thới có huyền khải "Nhị Thiên túc vật ngoại Phật nội Trời" tức là Nhị Thiên Ngọc Đế ngoài Phật trong Trời. Chữ Túc 玉 nghĩa là Ngọc và chữ Vật 沕 nghĩa là ẩn giấu. ông Ba Thới đã từng khải lộ trong cuốn Kim Cổ Kỳ Quan, bài Cáo Thị:
"TAM TÀI NHỨT TÁNH VI THÁNH TAM TRỜI
DĨ HẬU LẬP ĐỜI PHÂN TRỜI PHÂN PHẬT
NHỊ THIÊN TÚC VẬT NGOẠI PHẬT nội TRỜI
TÂY ĐẶT THUẬN THỜI LÒNG NỘI MẸ VIỆC NHẸ NGOẠI CHA"
(Trích dẫn KIM CỔ KỲ QUAN, bài Cáo Thị, của ông Ba Thới, 1915, Hòa Hảo.)
TAM TÀI là nói Thiên Địa Nhân đồng vị. Thiên đây là Cha. Địa đây là Mẹ. Nhân đây là "Nhị Thiên Túc ngoại Phật nội Trời". TAM TÀI NHỨT TÁNH là CHA-MẸ-CON ba ngôi trong một thể hữu hình, cùng một thể tánh. VI THÁNH TAM TRỜI ...LẬP ĐỜI là nói Thánh Nhân vốn là Trời xuống thế lần thứ ba thiết lập Trào Tam Đại Đạo dẫn người vào ngươn Thánh Đức Tân Dân. NHỊ THIÊN là ông Trời dưới thế còn được tôn xưng là Ngôi Hai. TÂY là nói Tây Phương, nói chính xác là HOA KỲ. TÂY ĐẶT THUẬN THỜI là thuận theo thiên thời khai mở (đặt) Đại Đạo tại xứ Hoa Kỳ. Tại sao đặt tại Hoa Kỳ là thuận thời? Thiên Cơ do Trời xếp đặt rồi và đã gởi dòng người tỵ nạn ra hải ngoại sau 1975. LÒNG NỘI MẸ VIỆC NHẸ, NGOẠI CHA là có ý nói Ngôi Hai Trào Tam có ẩn phần "Khôn Đế" Vô Cực Kim Mẫu Diêu Trì bên trong (lòng nội) nên có tánh mềm mỏng dung thứ của Mẹ đối với thế gian, còn bên ngoài thì thể hiện tánh cương liệt của "Càn Đế" Cha Vô Cực Huyền Thiên để thực hiện Hoàng Đồ Đại Đạo của Đỉnh Thiên (hiển lộ). Tuyệt diệu thiên thơ, mấy ai thấu đáo! [Chú giải của người soạn.]
"NGỘ TÂM KHÔNG TÁNH ĐẠO HOẰNG KHAI [Đại Đạo hoằng khai tâm ngộ tánh không]
GIÁO PHÁP VÔ VI CÕI NGỌC ĐÀI [KHÔNG là Vô Vi giáo pháp cõi Đại Đồng]
THIÊN NHÃN BỬU TÒA KHAI TẤT CẢ [Ngọc Đài khai mở tất cả Bửu Toà Thiên Nhãn]
PHẬT NHÂN, TAM GIÁO GIÁP CAO ĐÀI. [phật nhân tam giáo giáp Cao Đài một Huỳnh tông]
[Khoán thủ: Ngộ Giáo Thiên Phật Không Tánh Vô Vi Bửu Tòa Tam Giáo.]
LINH TIÊU ĐIỆN ĐIỂM NGÀY KHAI GIÁO [Linh Tiêu Điện điểm khí ngày khai giáo, trường]
BẠCH NGỌC CUNG TRƯỜNG ĐẠO THƯỢNG NGƯƠN [đạo thượng ngươn Bạch Ngọc Cung,]
LIÊN TÔN GIÁO ĐẠO THIÊN TRƯỜNG [Liên Hoa Tôn giáo đạo tại Thiên Trường]
LONG HOA ĐÃ MỞ TỪ MƯỜI THÁNG BA." [Long Hoa đã mở từ 10 tháng 3 năm Thìn Giáp]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
NGỌC ĐÀI là Đài Cao trên Ngọc Hư Cung, chỗ Thượng Đế ngự. PHẬT NHÂN bao hàm hai nghĩa: (1) Phật trong nhục thân; (2) người có tâm Phật, người theo Phật, Phật tử. LIÊN là Hoa Sen, cũng là HÀ. TÔN là Thiên Tôn. LIÊN TÔN là Liên Hoa Tôn, ám chỉ vị THIÊN PHẬT (ngoài PHẬT trong TRỜI) là vị PHẬT NHÂN (Phật trong xác phàm), cũng là nói Thiên Tôn họ Hà. Còn theo bạch văn nói chung thì Liên Hoa Tôn không phải là Phật hiệu mà là một danh từ chỉ chung bất cứ vị Phật nào, bởi vì vị Phật nào cũng là một đóa liên hoa, cũng là một đấng Thiên Tôn (Thiên Nhân Sư). THIÊN PHẬT cũng không phải là hiệu mà là chân tướng đặc thù của một vị Phật Tôn xuất hiện trong kỳ ba này, chân tướng "ngoài PHẬT trong TRỜI", nói cho rõ hơn là ông PHẬT này là ông TRỜI hóa thân xuống thế. ĐẠO THIÊN TRƯỜNG là trường đạo của BẠCH NGỌC CUNG và do Đức Thiên Phật/Liên Hoa Tôn giáo đạo. LIÊN TÔN GIÁO ĐẠO THIÊN TRƯỜNG là nói Liên Hoa Tôn giáo đạo tại Thiên Trường tức nói Thiên Tôn họ Hà giáo đạo tại Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên. MƯỜI THÁNG BA là ngày 10 tháng 3 năm Giáp Thìn (18/4/2024), ngày chính thức "khai giáo" THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. [Chú giải của người soạn.]
"GIÁO TÔNG ĐẠO KỲ HOA PHÁP CẢNH [Giáo Tông Huỳnh Đạo đang tại Hoa Kỳ cảnh pháp]
CÕI NGỌC ĐÀI ĐÍNH CHÁNH QUẦN SANH [Ngọc Đài đính chính để quần sanh biết rõ]
THIÊN LONG, HỘ PHÁP, TAM THANH [cùng với Tam Thanh, chư Thiên Long và hộ pháp]
HUYỀN VI ỨNG DIỆU HOÀN THÀNH ĐẠO KHAI. [tiến trình lập đạo khai giáo nay hoàn thành]
BÁT MÔN TRẬN MỞ NGÀY GIỖ TỔ [Bát Môn Trận mở vào ngày giỗ tổ 18 Vua Hùng]
CỬU TRÙNG THIÊN ĐÃ LỘ RỒI ĐÂY [thế là Cửu Trùng Thiên đã hiển lộ rồi]
ĐIỂN THIÊN CHIẾU GỘI ĐÔNG TÂY [từ đây điển thiên chiếu gội Đông Tây]
THAY TÂM ĐỔI TÁNH CHUYỂN XOAY NGŨ HÀNH." [chuyển xoay ngũ hành thay tâm đổi tánh]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
ĐÍNH là hiệu đính, rà soát, kiểm tra lại các lỗi suốt quá trình đã qua, sau đó tiến hành sửa lỗi và điều chỉnh cho đúng. CHÁNH là chánh thức. ĐÍNH CHÁNH là CHÁNH THỨC HIỆU ĐÍNH quá trình “Giáng Đạo – Khai Giáo – Lập Đời Tân Dân” của Đức Chí Tôn để hiểu cho đúng Thiên Cơ và "điều chỉnh lại đạo lộ" cho đúng với chương trình Lập Đời Thánh Đức Tân Dân của THẦY. CÕI NGỌC ĐÀI ĐÍNH CHÁNH QUẦN SANH là nói Ngọc Hư Cung đính chánh những sai lầm của quần sanh cho quần sanh hiểu rõ mà điều chỉnh "thái độ và lộ trình đạo" của mình chứ không phải đính chánh với quần sanh sai lầm của Ngọc Hư Cung (không có chuyện Ngọc Hư Cung sai lầm). TAM THANH là các đấng Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn, tức phân tánh mà hóa thành, hiện hữu cùng với đất trời từ thuở khai nguyên vũ trụ Đại La Thiên; Đại diện là Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn, Đức Đạo Đức Thiên Tôn (Đức Thái Thượng Đạo Tổ), Đức Linh bảo Thiên Tôn (Đức Thông Thiên Giáo Chủ). [Chú giải của người soạn.]
Ngày chính thức "khai giáo" THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA đồng thời cũng là ngày mở BÁT MÔN ĐỒ TRẬN. Chữ ĐỒ có nghĩa là "sát". BÁT MÔN ĐỒ TRẬN hay chính xác hơn là BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN TRẬN là trận pháp huyền vi lọc sàng những kẻ dầu có trãi ngàn năm tu luyện mà nay vẫn thiếu ĐỨC ĐỘ, những kẻ tham đắm sa đọa danh sắc lợi quyền, vọng động háo thắng ham tranh ham chiến khuấy loàn thiên hạ, theo bàng môn tả đạo kéo bè kết đảng xúi dại nhân sanh làm quấy, dùng tà linh thuật pháp mê hoặc chúng nhân làm điều bất thiện, tiếm danh Tiên Phật xưng thần xưng thánh giả mạo cơ thiên lợi dụng nhân tâm làm điều phi pháp, khoác áo tôn giáo mượn đạo tạo đời làm hư Cửa Thánh, ỷ tài kiêu ngạo coi thường THIÊN LUẬT biếm nhạo THIÊN ĐÌNH chẳng kiêng oai THIÊN TÒA TAM GIÁO... sẽ không thoát khỏi tai kiếp. Còn ác ma quỷ quái lộng hành phá hoại trật tự tam giới thì không cần phải nói. LINH TIÊU là điện Linh Tiêu, chánh điện của Ngọc Hư Cung. Nơi ấy có bệ ngọc tối cao tối thượng, là ngai của khối ánh sáng Đại Linh Quang, gọi là Thái Cực. Bệ ngọc ấy chính là Bạch Ngọc Đài hay Cao Đài. Chưởng quản nơi tối cao tối trọng này chính là Đức Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng. Đức Ngài còn được biết đến với các tôn danh khác như là Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa Thiên, Đấng Chân Chủ, Thiên Chúa, Đức Chúa Trời... LINH TIÊU ĐIỆN là tòa tháp có hình dáng lăng trụ bát giác đều 9 tầng tượng nên hình Bát Quái Cửu Cung, là nơi: (1) chư Thánh Linh, chư Thiên Tôn bái kiến Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế; (2) hội họp định kỳ để đưa ra Thiên Luật được thiết lập nhằm gìn giữ trật tự Tam Giới vận hành theo khuôn mẫu công bình, liêm chính, bác ái, đại đồng; (3) có các giảng đường dạy về luật lệ vận hành trong Tam Giới cho chư Thánh mới vào Thượng Giới tham dự; (4) tuyên đọc các sắc phong cho những anh linh đạt quả vị trong Cửu Phẩm Thần Tiên. (Giải thích dựa theo tư liệu của Cao Đài, trong Tam Giới Toàn Thư, và của GHTT). [Chú giải của người soạn.]
"CƠN MƯA LỚN CHIẾN TRANH ĐỒ THÁN [chiến tranh đồ thán cơn mưa lớn]
THỊNH VƯỢNG KIA KHÔNG CÁNH MÀ BAY [không cánh mà bay thịnh vượng kia]
NÔ DÂN NẶNG GÁNH TIỀN TÀI [nặng gánh tiền tài khác nào nô lệ]
CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA KHỔ DÀI NHIỀU NĂM. [của thiên trả địa khổ đầm đìa]
CÁC LINH CĂN ĐIỂM PHẦN TRỜI ĐẤT [các linh căn được trời đất điểm phần]
CÙNG THIÊN TRƯỜNG LƯỢM DẮT QUẦN SANH [cùng Trường Thiên gom dắt quần sanh]
MẸ CHO XUỐNG THẾ THỰC HÀNH [Hoàng Mẫu cho xuống thế là để thực hành sứ mạng]
HÔM NAY NHỚ LẠI NGỌN NHÀNH GỐC XƯA. [hãy nhớ lại ngọn ngành gốc xưa ngay]
ĐỂ KHẾ HIỆP CHO VỪA ĐỜI ĐẠO [để khế hợp đời đạo cho vừa vai]
THÌ MẪU HOÀNG THÔNG KHẢO NGỌC CUNG [Ngọc Cung thông khảo thì Hoàng Mẫu]
CHUYỂN LÊN BÁT QUÁI CỬU TRÙNG [chuyển tên lên Bát Quái Cửu Trùng đài]
NGỌC HOÀNG KHAI MỞ BỘ ĐẦU NGUYÊN NHÂN. [để Ngọc Hoàng khai mở bộ đầu ngay]
RỒI ĐI ĐẾN TÂN DÂN THƯỢNG ĐỨC [rồi tân dân thượng đức đi đến]
GẶP THIÊN TRƯỜNG HỘI PHẬT THIÊN NHÂN [Thiên Trường gặp Đức Phật Thiên nhân thân]
ĐỘ CHO SANH CHÚNG TỪNG PHẦN [độ cho sanh chúng từng phần]
THOÁT MÊ TRẦN THẾ ĐƯỢC GẦN MẸ CHA." [thoát mê trần thế được gần Mẹ Cha]
(Trích dẫn sấm ký NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TỎA KIM QUANG, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
CÁC LINH CĂN ĐIỂM PHẦN TRỜI ĐẤT là Các Linh Căn được Trời (Cha) Đất (Mẹ) điểm phần giao sứ mạng. CÙNG THIÊN TRƯỜNG LƯỢM DẮT QUẦN SANH là phải qui về nơi Giáo Hội Thiên Trường để thực hiện sứ mạng dẫn dắt quần sanh. PHẬT là nói Đức Ngài THIÊN PHẬT (ngoài Phật trong Trời) trong xác phàm. THIÊN NHÂN là nói tất cả chư Thiên Long và Thiên Hoa, là những đại linh căn xuống thế làm phận sự đã được ủy thác trước khi xuống thế. Khi tất cả tụ hội lại một nơi chính là lúc khai Long Hoa Đại Hội, tức là khai hội Tân Dân Thượng Đức. Đến lúc khai hội thì nhớ tìm đến Thiên Trường (Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên - Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba) để hội ngộ với Đức Ngài Thiên Phật và các Thiên Nhân (gặp Thiên Trường hội Phật, Thiên Nhân). [Chú giải của người soạn.]
"VIỆC CAO CẢ TA BÀ Y LỊNH [việc cao cả Ta Bà y lịnh]
HÀNG LINH CĂN GIẢI BỊNH BÓNG ĐỒNG [hàng linh căn phải giải bịnh mê bóng đồng]
VÀO THIÊN TRƯỜNG ĐẠO, TÂM KHÔNG! [vào Thiên Trường Đạo với cái tâm không]
NHẬN CHƠN LINH ĐIỂN HUỲNH HỒNG RỒI TU. [nhận chơn linh điển Huỳnh Hồng rồi tu]
THÌ GIẢI THOÁT AO TÙ TRẦN BẾ [thì sẽ thoát khỏi ao tù trần thế]
GIÁC NGỘ LIỀN CHUYỂN THỂ PHÁP TÂM [pháp tâm thể chuyển giác ngộ liền]
SỐNG ĐỜI ĐẠO CẢNH THẬM THÂM [rồi sống cảnh đời đạo thậm thâm]
ĐƯƠNG LAI DI LẠC DƯƠNG ÂM THIÊN BÌNH." [hiện đương Di Lạc Thiên Bình vô hữu]
(Trích dẩn sấm ký Ngọc Hoàng Thượng Đế Tỏa Kim Quang, nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng gởi đến Hội Thánh GHTT ngày 26 tháng 4 năm 2024 lúc 21:16 giờ California. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp điển, tại Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO.)
TRẦN BẾ là trần gian không lối thoát. ĐƯƠNG LAI thường được dịch là tương lai, nhưng ở đây khẳng định là hiện tại (đương là đang, lai là đến, đến và đang chính là hiện tại). ĐƯƠNG LAI DI LẠC DƯƠNG ÂM là Di Lạc hiện nay đang có mặt, bằng xác thể hữu hình (dương) và linh thể trong vô vi (âm). THIÊN BÌNH gồm 3 nghĩa (1) Những lời này là của Thượng Đế xuống điển bình giải; (2) Ngài Di Lạc đang cầm Cân Thiên Bình (cân đo thiện ác, công tội) của Thượng Đế; (3) là nói Thiên Bình Tân Quốc, thiên danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. [Chú giải của người soạn.]
6. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, THÁNH CHÚA THUYẾT GIÁO
Như đã từng giải trình qua và sẽ tiếp tục giải trình thêm, sấm ký khải lộ Phật Vương Di Lạc chính là Huyền Thiên Thượng Đế, cũng chính là Thiên Chúa Ngôi Hai Jesus, cũng chính là Thích Ca Mâu Ni Phật Tổ, cũng chính là Bửu Sơn Kỳ Hương Phật Tổ. Danh xưng khác nhau tùy theo văn hóa vùng miền và giảng truyền giáo lý khác nhau tùy theo nhu cầu và căn cơ chúng sanh, đã đang và sẽ tương tục như vậy ở mỗi thời không từ vô lượng kiếp quá khứ cho tới vô lượng kiếp tương lai. Nhân thân của các ngài theo góc nhìn lịch sử thì có khác nhau nhưng linh quang xuống thế theo góc nhìn đạo sử vô vi thì chỉ có một khối năng lượng đó hóa thân. Và lần này hiện thân với danh xưng Phật Vương Di Lạc, Đức Ngài sẽ tiếp tục dẫn dắt quần sanh trong suốt bảy trăm ngàn năm tới để dựng một "Niết Bàn tại thế" ngay trên quả địa này. Những đoạn sấm ký theo sau sẽ cho thấy rõ hơn nhiều điều về Di Lạc Phật Vương mà nhân gian vẫn mù mờ và hiểu rõ hơn về nền tảng giáo lý mà Đức Ngài đã từng hoằng truyền trong các đời quá khứ và đang hoằng truyền trong đời hiện tại. Thiên Thượng đang vẹt màn the để làm rõ nhiều vấn đề hầu giúp cho nhân loại kịp lúc quay đầu lìa xa con đường dẫn tới tự hủy. Thế gian đã đến thời điểm phải đối diện với sự "sàng lọc khốc liệt" để thực hiện cơ hiệp nhứt và xây dựng thế giới đại đồng. [Chú giải của người soạn.]
6.1
"MƯỜI PHƯƠNG ÁNH SÁNG TRANG NGHIÊM CÕI [cõi trangnghiêm ánhsáng chiếu 10]
XUẤT GIÁNG VIỄN DU HOA TẠNG [phương, từ thế giới Hoa Tạng xuất giáng viễn du]
THẬP CỔ GIAI KỲ PHÁP THÂN CƯ ĐỘ." [lâu xa rồi pháp thân lui tới cư độ thế gian]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HOA TẠNG là thế giới LIÊN HOA TẠNG (Padma Garbha Loka dhatu) còn gọi là LIÊN HOA QUỐC hoặc HOA TẠNG TRANG NGHIÊM THẾ GIỚI HẢI hoặc HOA TẠNG TRANG NGHIÊM CỤ THẾ GIỚI HẢI hoặc DIỆU HOA BỐ ĐỊA THAI TẠNG TRANG NGHIÊM THẾ GIỚI hoặc LIÊN HOA ĐÀI TẠNG THẾ GIỚI HẢI hoặc THẬP LIÊN HOA TẠNG THẾ GIỚI hoặc THẬP HOA TẠNG, là nơi cư trú của Thanh Tịnh Pháp Thân Phật Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là ánh sáng rực rỡ trang nghiêm chiếu khắp 10 phương. Câu mở đầu của đoạn sấm ký nói "10 phương ánh sáng trang nghiêm cõi" chính là nói cõi Tỳ Lô Giá Na. Căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm, THẾ GIỚI CHƯ PHẬT LÀ NHẤT CHÂN THẾ GIỚI. Trong Nhất Chân Thế Giới có vô số biển nước thơm. Có một biển nước thơm tên Phổ Quang Ma Ni trang nghiêm. Trên biển nước thơm Phổ Quang Ma Ni trang nghiêm có một hoa sen lớn tên Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Trảng được tạo thành từ vô số thế giới nhỏ. Thế giới HOA TẠNG của Tỳ Lô Giá Na Phật nằm ở trung tâm trong bông sen lớn đó. Phật Tỳ Lô Giá Na đã trải qua hằng hà sa số kiếp tu hành chứng được Vô Thượng Bồ Đề. Muôn vạn hoá thân của Tỳ Lô Giá Na Phật có mặt đồng thời trong vô số thế giới để thuyết pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng chỉ là một hoá thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, đang thực hiện việc giáo hoá chúng sanh ở thế giới Ta Bà. Chiếu theo kinh Phạm Võng và kinh Hoa Nghiêm thì thế giới Ta Bà và thế giới Cực Lạc nằm trong thế giới LIÊN HOA TẠNG. Với kinh Hoa Nghiêm thì thế giới Hoa Tạng là thế giới của Tỳ Lô Giá Na Phật. [Chú giải của người soạn.]
"PHÁP MẦU NHIỆM BI TRẦN THÂN CHÍ [thân trần chí nhiệm rãi pháp mầu từ bi]
ĐẠO VÔ BIÊN PHÁP GIỚI TỘT Y [vô biên tột pháp đạo, thế giới ráng hành y]
TÂY PHƯƠNG AN LẠC QUY MẠNG NGUYỆN [nguyện quy mạng Tây Phương được thường an]
ĐẠI LỰC TỪ BI PHẬT ÂN DI. [tạ ơn đại lực từ bi Phật Lạc Di]
NHỨT NHỨT MINH QUANG THIÊN XUẤT NHẬP [nhứtnhứt quangminh ThiênTôn xuấtnhập]
SẮC DANH DANH SẮC TÔN DI THẬP [sắc danh danh sắc Thiên Tôn Di Lạc Thầy Nhơn Thập]
TUYÊN THUYẾT BIẾN HƯ HÓA XUẤT QUANG [hư không biến hóa xuất quang tuyên thuyết]
THIÊN NHẬP THỂ PHỤC VÔ THƯỢNG LẬP...[Trời đương trở lại, nhập thể vô thượng lập]
TỎA THÂN HIỆN KỲ BA HÓA HIỆN [thân tỏa ánh hào Kỳ Ba hóa hiện]
BẤT ĐỘNG TRÌ THÂN PHÁP BẢO LIÊN [pháp thân bất động trì, bảo liên Phật đảnh phóng]
VÔ PHÁP ĐẠO PHẬT ÂN ĐẢNH PHÓNG [vô thượng pháp đạo thị hiện]
THỊ HIỆN HƯ KHÔNG BẬC CAO HUYỀN…[bậc vô thượng hư không cao tột Huyền Thiên]
BỒ ĐỀ THẾ TÔN [xưa ngồi dưới cội bồ đề từng được thế gian tôn Thích Giác]
HIỆN KHÔNG KHÔNG HIỆN [nay hiện thân mà như không, không mà như hiện]
ĐẶNG KHIẾT PHÁP TƯỞNG [đặng khiết pháp thanh tịnh]
NƯỚC PHƯƠNG CÕI PHẬT [tưởng cõi nước Phật khắp 10 phương]
TÔN BẬC KHÓ THẤY [bậc cao quý khó thấy]
NAY THẤY MỘT LẦN [nay được thấy một lần]
MƯA PHÁP ĐẦY ĐỦ…[rưới mưa pháp đầy đủ]
TA ĐỘ CHÚNG SANH [Ta độ cho chúng sanh]
TU HÀNH PHẬT ĐẠO [tu hành theo lối Phật]
TA TẠO HÓA RA [Ta tạo lập hóa ra]
KỲ BA DỊ ĐẠO [Đạo Kỳ Ba phi thường]
THÔNG THẠO PHẬT THỪA [Ta thông thạo Phật thừa]
TỪ XƯA TỪNG CÓ [từ xưa đã từng có]
PHẬT ĐÓ VÔ THƯỢNG [vị Phật đó vô thượng]
BA PHƯƠNG BỐN CÕI [bốn phương cùng ba cõi]
THỜI NÓI PHÁP NGHE [thời thời thuyết pháp cho nghe]
BỒ ĐỀ PHẬT ĐẠO…[Phật Đạo bồ đề]
NGƯỜI NGHE PHÁP ĐẦY ĐỦ TA HIỆN [Ta hiện thân, pháp mọi phương diện cho người nghe]
TRỤ PHƯƠNG DIỆN NGƯỜI NGHE ĐƯỢC DUYÊN [trụ nơi pháp Ta người nghe được duyên]
TA NGỰ TẦN SỐ CAO THANH TỊNH [Ta ngự nơi tầng số cao thanh tịnh]
NGHÌN ỨC THỰC DIỄN NGHĨA PHÁP THIỀN [pháp thiền thực nghĩa diễn ngàn ức thế giới]
VÔ LƯỢNG KIẾP NAY TA CHỈ GIÁO [Ta chỉ giáo từ vô lượng kiếp nay]
BA MINH BỐN TRÍ TRÌ PHÁP BẢO [trì pháp bảo của Ta dạy có đủ ba minh bốn trí]
NÓI PHÁP NGHE PHÁP THÂN THANH TỊNH [nói pháp nghe pháp thân thanh tịnh]
PHÁP MINH HIỆN TỊNH BÁU CỘT VÀO... [minh tịnh pháp bảo hiện. Cột vào!]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
BA MINH là (1) Thiên Nhãn Minh; (2) Túc Mạng Minh; (3) Lậu Tận Minh. Là trí tuệ của bậc chứng Thánh “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui” (trích Trung Bộ Kinh). BỐN TRÍ là Thành Sở Tác Trí, Diệu Quan Sát Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Đại Viên Cảnh Trí. THÀNH SỞ TÁC TRÍ chuyển hóa Tiền Ngũ Thức (5 thức căn bản hoạt động liền với 5 căn) mà thành (không còn sanh tâm phân biệt, điên đảo, động loạn, ưa thích; thấy nghe sánh suốt, hỷ lạc khinh an hiện tiền; thức thuộc hữu vi còn Thành Sở Tác Trí thuộc vô vi nên nó còn có tên là VÔ VI TRÍ). DIỆU QUAN SÁT TRÍ chuyển hóa thức thứ 6 là Ý Thức (công năng nghĩ suy, phân biệt, thị phi, quyết đoán) mà thành. BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ chuyển hóa thức thứ bảy Mạt Na (Ngã Thức) mà thành (ngã chấp, đấu tranh, hơn thua, được mất... đều tịch diệt; hai tướng nhân ngã không còn, từ bi sinh khởi; khổ vui không hiện khởi trong tâm, thọ uẩn tịch diệt, thọ uẩn tịch diệt trung tế tịch diệt, hậu tế tịch diệt, hữu thân tịch diệt, hậu hữu thân tịch diệt, sanh lão tử chấm dứt.). ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ chuyển hóa thức thứ tám A Lại Da (kho chứa dữ liệu) mà thành (còn có tên VÔ SỞ HỮU TRÍ, như tấm gương không chối vật mà cũng không lưu dấu hình; sở hữu là thức, vô sở hữu là trí; thức uẩn và hành uẩn tịch diệt, tánh giác hiện ra, soi thấu vạn hữu, thành tựu đại công đức). Tuy nói 8 thức nhưng thực ra chỉ có một thức đảm trách 8 chức năng khác nhau. Từ Đạo (người soạn sách này) gọi một thức này là Thể Trí của con người.
"SỐ VI TRẦN KIẾP SỐ TRƯỞNG TỬ [nhiều như số vi trần kiếp]
TA NAY THẢY ĐỀU LẦN NHẬP ĐỦ [trưởng tử của ta nay thảy đều lần lượt nhập đủ]
DIỆU PHÁP TA ĐỀU HIỆN Ở ĐÂY [diệu pháp của Ta, tất cả đều hiện diện ở đây ]
MỘT LỜI HOA PHÁP BẬC ĐẠO TỪ. [để lắng nghe lời Pháp Hoa của một bậc Đạo Từ]
NGÔN RẰNG TRỤ PHẬT NHỨT TRÍ HUỆ [lời rằng trụ nơi Phật được trí huệ bậc nhứt]
DANH RẠNG BÁU TRỜI TRỤ ĐẠO PHÊ [trụ nơi Đạo Trời được danh phê rạng báu châu]
THIÊN TRẢI BÍCH NÀY NÓI PHÁP NGHE [nghe nói pháp này chư thiên mừng rải ngọc báu]
QUỐC ĐẠO AI GẦN ĐẶNG PHẬT VỀ… [Phật Quốc ai gần sẽ đặng đạo giải thoát]
[Khoán: Danh Ngôn Thiên Quốc. Phật Trời (Thiên Phật) Này Gần. Trí Đạo Pháp Phật.]
VÌ NGHE TA NÓI MÀ CUNG KÍNH [vì nghe Ta thuyết mà cung kỉnh]
CẦU PHÁP TA HOẰNG ĐƯỢC ĐẾN BỜ [cầu pháp Ta hoằng đến được bờ]
ĐIỂN TRỤ NÓI PHÁP BẤT THỐI CHUYỂN [hóa thân trụ điển nói pháp bất thối chuyển]
BỐN MƯƠI TÁM BÁU HÀNG TRỜI THIÊN [48 báu hàng trời thiên và tất cả]
THIỆN NAM TÍN NỮ NGHE DIỆU PHÁP [thiện nam tín nữ nghe diệu pháp Ta thuyết]
HOA SEN SANH HÓA BƯỚC LÊN LIỀN." [hoa sen liền sanh, lúc hóa bước lên liền]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN QUỐC từ bốn chữ THIÊN BÌNH TÂN QUỐC, là thiên danh của Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. THIÊN BÌNH là cây cân thiên bình, một pháp khí tiêu biểu của Ngọc Đế, đấng phán xét công tội của vạn linh. TÂN QUỐC là Đạo Quốc của Tân Dân. 48 BÁU là nói 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong cuốn Kinh Bi Hoa (Đại Bi Liên Hoa) ngoài việc nói đến nhân duyên tiền thân của Đức Phật A Di Đà cùng với rất nhiều vị Phật và Bồ Tát khác, phần lớn nội dung kinh giảng về Pháp Bố Thí trong tinh thần Đại Thừa như là một phương tiện để hiển bày tâm đại bi của Bồ Tát.
"SA DI ĐÀ RA TẤT NA ĐA
CHIÊN ĐÀ LA HA TA ĐÁT ĐA
BA LA MẬT ĐA BÁT ĐẲNG MẾ
NHẬP PHẠ RA NHẬP PHẠ RA ĐA
TA NA CHI TẠ XI TA NA
TRÙ TUNG TA ĐÀN BẾ DIẾC TA ĐÀ.
HÃY ĐẢNH LỄ CHÁNH PHÁP NGÀY NAY [chánh pháp của Ta ngày nay, hãy đảnh lễ]
ĐOẠN TẬN DIỆT KHÔNG TẠO ÁC LAI [đoạn, diệt tận, không tạo thêm nghiệp ác nữa]
CHƠN HẠNH PHÚC MỌI LOÀI HẠNH PHÚC [chơn hạnh phúc là khi mọi loài được hạnh phúc]
ĐẢNH LỄ PHẬT NƠI ĐÂY OAI LỰC [hãy đảnh lễ Phật nơi đây, bậc oai lực]
GIỮA HƯ KHÔNG ĐẠI BỰC THẾ TÔN [giữa hư không Đức Ngài đáng bực Đại Thế Tôn]
THÂN KIẾN PHẬT KHÉO Y TỰA LÒNG... [thấy được thân Phật hãy khéo y tựa lòng]
HƯƠNG MẦU BAY KHẮP MƯỜI PHƯƠNG [kỳ hương bay khắp mười phương cõi]
LỄ NGHI [HÃY] BÀY THỈNH PHẬT VƯƠNG ĐẠI ĐỒNG [lễ nghi bày thỉnh Phật đại đồng]
TRẦN HỒNG TIẾN TỚI ĐẤT KHÔNG [trần hồng cõi tục hóa tịnh không]
KHÔNG ĐƯỜNG VỀ, CÕI TÂY ĐÔNG RÕ TƯỜNG. [là đường về, cõi Tây Đông hãy rõ tường]
HƯƠNG HOA BÁU NGỌC TÂY PHƯƠNG [hương sen báu ngọc Kỳ Hoa tại]
HƯ KHÔNG HÒA ĐIỆU SẼ TƯỜNG NAY MAI [hòa điệu hư không rõ nay mai]
NỬA VẦNG TRĂNG SÁNG NGUYỆT KHAI [trăng vàng nửa lộ sáng khai]
PHỤNG RỒNG TÁ TRỢ NAY MAI TRỔ HÌNH [phụng long phò tá nay mai trọn hình]
TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ ĐĂNG TRÌNH [Giáo Chủ lên đường về cõi Phương Tây]
ANH TÀI MINH TRIẾT TRUNG TRINH VẪY VÙNG [anh tài minh triết trung trinh vùng vẫy]
ĐANG HỒI XỬ TRỊ TRẦN LUNG [trần lung đang hồi trị xử răn đe]
HỮU VÔ VÔ HỮU TUYỆT CÙNG LẮNG NGHE!" [tận ý hữu vô vô hữu lắng nghe]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
TÂY PHƯƠNG là nói toàn thể Tây Bán Cầu nhưng đặc biệt ám chỉ Hoa Kỳ. NỬA VẦNG TRĂNG đồng nghĩa với chữ BÁN NGUYỆT và có nghĩa là giữa tháng hay ngày rằm. NGUYỆT là hình ảnh biểu thị vòng hào quang tỏa ra chung quanh đầu của các đấng giác ngộ, các bậc thánh trí. NỮA VẦNG TRĂNG SÁNG NGUYỆT KHAI, PHỤNG RỒNG TÁ TRỢ NAY MAI TRỔ HÌNH là ý nói đấng giác ngộ, đấng thánh trí xuống thế vào một đêm trăng sáng và nay mai Đức Ngài sẽ trổ hình, được phụng rồng tá trợ. [Chú giải của người soạn.]
Với các từ "đăng trình" hay "minh triết" hay "trung trinh" hay "vẫy vùng" trong hai câu TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ ĐĂNG TRÌNH, ANH TÀI MINH TRIẾT TRUNG TRINH VẪY VÙNG thì rõ ràng là nội dung sấm ký này đang khải lộ những điều về một nhân thân bằng xương bằng thịt dưới thế gian. Người này là ai? Thưa nhân thân này chính là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Đức Ngài từ Phương Đông (VN) đến nên mới nói "đăng trình". Đức Ngài là Giáo Tông của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba khai mở và đang có mặt giáo đạo tại Phương Tây (Hoa Kỳ) nên mới nói là "Tây Phương Giáo Chủ". HỮU VÔ VÔ HỮU TUYỆT CÙNG LẮNG NGHE là ý nói cái hữu vi liền đi với cái vô vi và cái vô vi đi liền với cái hữu vi, "ai có tai thì hãy dùng tai để mà nghe" và nghe cho thật rõ (mượn lời Kinh Thánh Cơ Đốc), cho nên thấy nhân thân hữu hình thì cũng phải thấy linh thể vô hình ẩn dạng, nói huyền năng của linh thể xuống thế cũng là nói xác thể hữu hình tại thế. [Chú giải của người soạn.]
"HIỆN TA TA HIỆN ĐỘ BÁ TRẦN [hiện nay Ta đang hiện thân tại trần độ chúng nhân]
NGƯỜI MAU GIÁC NGỘ CỨU LẤY THÂN [người mau giác ngộ để cứu lấy bản thân]
DANH TA CẦU MUỐN MAU TU ĐẠO [muốn mau tu đạo hãy cầu danh ta Di Lạc]
CHÍ ĐẠI TỪ BI ÁNH ĐẠO VÀNG. [chí đại từ bi sẽ chiếu ánh đạo vàng]
(Trích dẫn kinh DI LẠC PHẬT VƯƠNG THUYẾT GIẢNG TÂM KỆ, đàn giờ Tý ngày 4 tháng 2 năm Kỷ Hợi (9/3/2019) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Trong Kinh Bi Hoa có đoạn "Phật bảo Đại Bồ Tát Di Lặc: … Di Lặc! Ở nơi quá khứ trong mười đại kiếp, nếu có người nào muốn nguyện thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay khi đó, ông liền đáp ứng đầy đủ, làm cho họ nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vào Vô Dư Niết Bàn. Di Lặc! Ông ở lâu nơi sanh tử do bổn nguyện. Sở dĩ không thành Phật là do chưa đúng lúc. Di Lặc! Vì ông, nay Ta trao chức vị Phật." CẦU DANH: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có ghi một tiền kiếp của bồ tát Di Lạc hiệu là Cầu Danh.
Nhưng Di Lạc Phật Vương được nói tới trong sấm ký này không phải là Bồ Tát Di Lặc nói tới trong kinh Bi Hoa mà là Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế hóa thân xuống thế "tá danh Di Lạc trần gian, Phật Vương là hiệu Minh Hoàng là danh". Trong ba câu đầu tiên của sấm ký 6.1 Phật Vương đã tự giới thiệu mình đến từ thế giới Hoa Tạng, đã xuất giáng viễn du cư độ thế gian, đã dạy đạo từ vô lượng kiếp xưa, đã có vô số vi trần trưởng tử nay đã lần lượt nhập đủ 10 hiệu. Như vậy thì rõ ràng là Di Lạc Phật Vương nói đến trong sấm ký 6.1 này không phải là Bồ Tát Di Lạc của kinh Bi Hoa nói. Và thế giới Hoa Tạng của Đức Ngài, như đã nói "Ta ngự tầng số cao thanh tịnh" và nơi đó "10 phương ánh sáng trang nghiêm cõi", là "chốn trời cao thẩm Thiên Đường Sáng" (trong đoạn sấm ký 5.10). Phải chăng thế giới Hoa Tạng và Tỳ Lô Giá Na Phật nói tới trong kinh Hoa Nghiêm chính là một cách mô tả "Thiên Đường Sáng" và Thiên Chúa Cha của Thiên Quốc Cực Lạc theo ngôn ngữ đặc thù Phật Giáo??
Nói tóm lại Di Lạc Phật Vương không phải là Bồ Tát Di Lạc của Phật Giáo nói mà là một đấng Đại Thiên Tôn, là đấng "nhựt nguyệt tinh, thần chi Quân" (Chúa của toàn thể vật chất hữu hình và linh thể vô hình), là đấng "Thánh Thần Tiên Phật chi Chủ" (Chủ của tất cả thánh thần tiên phật) như trong kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo hay Thiên Đế Bửu cáo Cáo (Lời cáo do Đức Quan Thánh Đế Quân và Đức Phù Hựu Đế Quân, cũng là Thuần Dương Lão Tổ Lữ Đồng Tân, xuống điển ban kinh ngày mùng 01 tháng 09 năm Tân Mão nhằm ngày thứ bảy 03/10/1891 tại Thiểm Tây, Trung Quốc vào đời Vua Quang Tự, sau này được ngài Ngọc Lịch Duyệt chọn làm bài kinh tán thán Thượng Đế cho Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ).
Vạch ra sự khác biệt chỉ là để hiểu rõ thêm thực nghĩa của sấm ký và thiên cơ cũng như xác nhận danh xưng của các ngài ở mỗi cơ kỳ giáng đạo để căn cứ theo đó mà hiểu được những điều khải lộ chứ không có mục đích phân biệt với những ý đồ tiêu cực. "Khối ánh sáng" từ "cõi Thiên Đường Sáng" xuất giáng viễn du và hiện thân trong thế gian này dầu dưới danh xưng nào đi nữa, là Thích Ca Mâu Nhi Thế Tôn, hay Di Lạc Vương Phật Thiên Tôn, hay Thánh Chúa Ki Tô Jesus hoặc là Phật Thầy Linh Sơn, hay Phật Thầy Bửu Sơn, hay Thầy Nhân Thập, hay Phật Thiên... thì cũng chỉ là "hóa thân" của "khối ánh sáng" xuống thế trần tạm mượn "sắc danh" để dẫn dắt chúng sanh. Chúng ta có thể "sờ được" hóa thân nhưng không thể "chạm được ánh sáng" của các ngài vì vượt ngoài khả năng của con người. Các Đức Ngài nói vậy thì phàm nhân như chúng ta chỉ biết nghe vậy chứ thực sự chẳng có "con người nào", "học giả nào", "nhà nghiên cứu nào", "ông thầy tu nào", "ông đạo sĩ nào" có thể khẳng định những gì được dạy là "sự thật tuyệt đối", tôn giáo của mình "nắm giữ sự thật tuyệt đối", đạo của mình "là con đường duy nhất và tuyệt đối dẫn đến chứng đắc". Nếu cứ giữ chấp niệm cái "tuyệt đối và duy nhất" của mình và phủ nhận tất cả các thứ "không khuôn theo cái tuyệt đối và duy nhất" của mình thì e rằng không vượt ra khỏi cái bóng lẫn khuất của hai chữ cuồng tín. [Chú giải của người soạn.]
6.2
"ĐỜI DỮ ĐẠO PHÁP THÂN KHINH TỊNH [Đời và Đạo pháp thân nhẹ sạch]
LÒNG TỪ BI PHỦ KÍN NHÂN GIAN [lòng Bi Từ phủ kín nhân gian]
CHUNG HÒA ĐẠO HẠNH CHỈNH TRANG [chung hòa đạo hạnh chỉnh trang]
CẦU ĐẠO CHÁNH PHÁP VẠN BANG HẾT SẦU [cầu đạo chánh pháp thế gian hết sầu]
LÔ KIỀM ĐÃN ĐA MẠC BỆ RA
LIỄM LIỄM ĐA HẮC TẤT ĐA HA
ĐÀ RA HA LÃO ĐÀ ĐA XÁ
ĐÁP LỆ DƯỢC CA TỲ XA ĐA
KHÔNG KHÔNG ẢNH HIỆN TỌA KHÔNG ẢNH [ảnh hiện không không ảnh tọa không]
CAO CAO THINH THIÊN TRỤ HOÀNG ÂN [lời chốn cao cao Thiên Hoàng hồng]
NGÕA NGÕA THUẬT ĐẾ BẤT ĐẠT DẠ
TAM MẠN ĐÀ DA TẤT ĐẾ HA
NA GIÁ LỊ HA DÀ ĐẾ ĐẠT
ĐẾ ĐẾ KỲ YẾT TRỤ ƯU ĐÀ.
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, đàn giờ Mão ngày 7 tháng 9 năm Mậu Tuất (27/10/2018) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
7. SẤM KÝ TRÀO TAM XUẤT THẾ, NHÂN THÂN GIỮA ĐỜI
Nhân thân có tên có phận chỉ là danh tướng tạm mượn để Thánh Linh giáng trần hoằng độ nhân sanh. Chỉ với cái linh thể vô hình thì nhân sanh không có khả năng nghe thấy do đó phải tạm mượn một cái xác phàm để tiếp cận nhân sanh mà dẫn dắt. Phải có đủ cả hai mặt âm dương, hữu vi và vô vi, thì mới thực hiện được công việc cõi vật chất hữu hình, tức là "họa bóng cho nên hình". Thực hiện những điều bất khả tư trong cõi vô hình thì thuộc về huyền năng của Thánh Linh. Thực hiện những điều nhân sanh có thể tai nghe mắt thấy thì thuộc về thực năng của phàm thể hữu vi. Hai thể tương ưng và liên kết nhau trong một nhân thân. Vì Thánh Linh vận dụng phàm thể để hoạt động cho nên mọi thể hiện của một nhân thân sẽ vừa phàm vừa thánh cùng lúc. Không thể chỉ vì thấy cái phàm thể hiện nơi nhân thân mà nói rằng không thánh. Cũng không thể chỉ vì thấy cái thánh thể hiện nơi nhân thân mà nói rằng không phàm. Vừa thánh vừa phàm là bản chất của thiên mạng xuất thế kỳ ba để thực hiện sứ mạng huyền vi được phó thác trong cuộc biến thiên dựng đại phong thần lập Long Hoa Hội. [Chú giải của người soạn.]
Các đoạn sấm ký theo sau sẽ khải lộ rất nhiều điều về nhân thân giữa đời của Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam trong thời kỳ chót này, thời của Trào Tam Xuất Thế. [Chú giải của người soạn.]
"TA BÓNG TÙNG PHÁP CHÁNH LẬP RA [Ta bóng tùng lập ra chánh pháp]
THIÊN QUAN THẦN KỲ DỰNG TRẢI QUA [Thiên Quan Thần dựng giáo từng trải]
CƠ DUYÊN ĐẠO KỲ BA RẢI BƯỚC [Kỳ Ba Thiên Đạo cơ duyên bước tiếp rải]
THIÊN ĐẠO THÁNH PHỤNG MINH THAO LƯỢC [phụng thánh Minh Thiên thao lược tài]
CHE BÓNG TÙNG THIÊN PHƯỚC DỰNG NIÊU [bóng tùng dựng phướn phước Trời che]
KHẢI ĐỜN CHÈO LINH ĐỈNH KHÚC CHIỀU [khải khúc đờn chiều Linh Thứu lại chèo ghe]
LAI TUỒNG HẠ PHỦ KÊU ĐẰNG KHÁCH [màn cuối trở lại khách quảy túi lớn đoái lòng kêu]
MỞ LỰC OAI KIM GIAI KHÍ PHÁCH [thềm vua bước xuống khí phách mở lực hống]
HUYỀN THƯỢNG THIÊN THÚC BÁCH DI SANG [Huyền Thiên Thượng Đế bước chân sang]
DỰNG QUỐC VƯƠNG KÝ GIỚI TRỜI ĐẰNG [ký dựng Vương Quốc Thiên Giới tại địa đàng]
NHIỆM KỲ CHUYỂN TRƯỜNG AN NGỌC BỬU [nhiệm kỳ vùng đất bảo châu Ca Li chuyển]
TAM MÔN DỰNG LIÊN TÒA LINH THỨU." [Linh Thứu Ông dựng tam giáo liên tòa Trường An]
(Trích dẫn NGỌC KINH: TAM MÔN DỰNG LIÊN TÒA LINH THỨU, đàn giờ Mão ngày 27 tháng 6 năm Quý Mão (13/08/2023) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
KIM là vàng. GIAI là bực thềm. KIM GIAI là thềm vàng, là nói bực thềm vua chúa bước xuống. TRƯỜNG AN là nói Trường An của phương Tây, tức vùng đất bảo châu California. LINH THỨU ÔNG là nói Thích Ca Mâu Ni Phật. [Chú giải của người soạn.]
"THEO BỐI CẢNH TÒA CHƯƠNG THAY ĐỔI [bối cảnh Tòa Chương thay đổi theo]
BẢO MẬT CƠ BỐN PHÍA XOAY VẦN [cơ bốn phía xoay vần bảo mật]
LỰC OAI THIÊN CỜ LỊNH NƠI NƠI [Lực Thiên Trời cờ lịnh nơi nơi]
HUYỀN NĂNG TRỔI TÁI HÀ XỨ RẠNG." [Huyền Thiên trổi giọng quê Hà xứ rạng]
(Trích dẫn CỰC LẠC THUYẾT TỬ KINH, đàn giờ Mão ngày 7 tháng 9 năm Mậu Tuất (27/10/2018) tại Thánh Đàn Nam Thành, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Thanh Huyền ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HÀ trong đoạn sấm này hàm hai ý: (1) là họ Hà, ám chỉ Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam và (2) ám chỉ xứ Hà Tiên, vùng đất của Bảo Giang Môn.
7.1
"HOÀNG NHỜ SÔNG LỘ ẨN CƠ THIÊN [cơ lộ: Hoàng Thiên ẩn nhờ thân xác Hà]
NGỌC CẬY SƠN ĐẦU ĐỢI PHÁP THIỀN [Ngọc Đế lên đỉnh núi cao đợi pháp thiền]
NƯỚC CHẢY HÁ MÒN THÂN BÁC LÃM [thân bác lãm nước chảy chẳng mòn]
NON CHÀY NÀO MÕI PHẬN THÂM UYÊN [phận thâm uyên non chuồi nào mõi]
TAM KHAI ĐỊNH ĐẾ HỒN QUYÊN THÁNH [hồn Quốc Thánh, Ngọc Đế đã quyết khai Kỳ Ba]
TỨ CHUYỂN ĐỒ VƯƠNG XÁC QUỐC TIÊN [xác Quốc Tiên, hoàng đồ quyết chuyển lần bốn]
XỬ SỰ THÂN NHÂN TÂN TUYỆT HIẾU [xử sự tuyệt hiếu nhưng bị người thân bài xích]
THÀNH GƯƠNG NGHIÊU THUẤN ĐÁP LƯƠNG HIỀN. [vạchgươngNghiêuThuấnđáplươnghiền]
HIỀN THẦN ẨN TÁNH LÁNH DANH NHƠ [hiền thần dấu tên chẳng cầu danh ô trọc]
TRUNG NGHĨA BẦN THANH GIỮ CÕI BỜ [trung nghĩa nghèo nhưng sạch rạch ròi lằn ranh]
THIÊN Ý GIÁNG TRẦN BAN SÁCH BÁU [ý Trời giáng xuống ban cho trần sách quý]
NHƠN TÂM TẠI THẾ LÃNH THIÊN THƠ." [lãnh thiên thơ tại thế hóa chuyển nhơn tâm]
(Trích dẫn Ngọc Kinh 3, trang , Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
SÔNG LỘ hay Nộ Giang là tên một con sông bên Trung Quốc. Nhưng ở đây không có ý nói sông này mà muốn nói SÔNG là HÀ và LỘ là phô bày ra ngoài. HOÀNG NHỜ SÔNG LỘ ẨN CƠ THIÊN hay CƠ LỘ HOÀNG THIÊN ẨN NHỜ SÔNG là nói cơ lộ rằng HOÀNG THIÊN ẩn nhờ thân xác của ông Hà. Nói một cách khác Hoàng Thiên hóa thân xuống thế lần này chính là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. NGỌC CẬY SƠN ĐẦU ĐỢI PHÁP THIỀN là nói Ngọc Đế lên đỉnh núi (sơn đầu) chờ đợi nhận pháp thiền. Dĩ nhiên là nói kim thân Ngọc Đế dưới thế tức là nói Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. SÔNG SƠN là nói SƠN HÀ (khoán ẩn trong hai câu trên dưới), mà Sơn Hà là đạo hiệu của Đức Ngài. BÁC LÃM là hiểu biết nhiều và lịch lãm, tức là có học thức cao rộng và kinh qua nhiều trải nghiệm. NƯỚC CHẢY HÁ MÒN THÂN BÁC LÃM là nói nước chảy theo thời gian làm cho đá cũng mòn nhưng không làm mòn được học vấn, kiến thức, hiểu biết, lịch lãm của Đức Ngài. CHÀY là chuồi, là trượt xuống. NON CHÀY là đồi núi bị sạt lở, chuồi xuống. NON CHÀY NÀO MÕI PHẬN THÂM UYÊN là nói núi đồi có thể chuồi lở sạt làm địa hình thay đổi nhưng phận thâm uyên của Đức Ngài vẫn không hao khuyết. QUYÊN là con chim quyên còn gọi là con chim quốc. Cho nên nói QUYÊN cũng là nói QUỐC. TAM KHAI ĐỊNH ĐẾ HỒN QUYÊN THÁNH là nói Ngọc Đế đã định "hồn thánh Quốc" khai mở Kỳ Ba. HỒN THÁNH QUỐC là nói thể thánh linh của Đức Ngài. QUỐC là nói tên của Đức Ngài. TỨ CHUYỂN là chuyển bốn lần tức bốn lần xuống thế, một lần trên đất Phương Tây, ba lần trên đất Việt. TỨ CHUYỂN ĐỒ VƯƠNG XÁC QUỐC TIÊN là nói lần bốn xuống thế khai lập hoàng đồ, xác Quốc Tiên sẽ "Lập vương quốc của Cha Ta dưới thế gian" (mượn lời thánh kinh Cơ Đốc). TÂN 儐 động từ là bài xích. XỬ SỰ NHÂN THÂN TÂN TUYỆT HIẾU hay THÂN NHÂN TÂN XỬ SỰ TUYỆT HIẾU là nói Đức Ngài xử sự "tuyệt hiếu" nhưng lại bị thân nhân bài xích. Tuyệt hiếu là hiếu với Cha Mẹ Thiên Cao, hiếu với Cha Mẹ tại trần, hiếu với dân, hiếu với nước. THÀNH GƯƠNG NGHIÊU THUẤN ĐÁP LƯƠNG HIỀN là nói Đức Ngài kẻ vạch gương Vua Nghiêu Vua Thuấn để đáp lại lòng khao khát của những bậc lương hiền. BAN SÁCH BÁU là ban thiên thơ, thánh giáo, sấm ký, kinh điển, sách trời. THIÊN Ý GIÁNG TRẦN BAN SÁCH BÁU là nói ý của Trời chọn Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc nhận sách báu giáng xuống từ Huyền Không Chí Thượng Chí Cao để ban ra cho nhân loại. NHƠN TÂM TẠI THẾ LÃNH THIÊN THƠ là nói thiên thơ lãnh hội sẽ chuyển hóa nhân tâm tại thế. [Chú giải của người soạn.]
"TỊNH SƠN ĐỈNH MỘT VÙNG SƠN THÁI [trên đỉnh núi yên tĩnh vùng Tây Nguyên rộng]
SƠN LIÊN ĐẦU MỘT DÃY THỦY BA [thấy đỉnh liền đỉnh mây giăng như nước sóng]
PHÙNG SƠN MỚI HIỂU LÝ CHAN HÒA [lên núi rồi con mới ngộ ra tình thương chan hòa lý]
CON ƠI CÒN ĐÓ CHỜ RA BAO GIỜ." [con ơi hỡi mõi mòn chờ con xuất lộ Mẹ ngóng trông]
(Trích dẫn Ngọc Kinh 3, trang , Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967.)
Đoạn trước của sấm ký 7.1 đã huyền khải rằng nhân thân ông Hà lên tới đỉnh núi mới biết sứ mạng của mình, mới nhận lãnh được pháp thiền và thiên thơ. Nói cách khác, Đức Ngài không biết trước chương trình mà Thiên Hoàng và Kim Mẫu đã dành cho Đức Ngài vì thế trong đoạn sấm ký này mới nói "phùng sơn mới hiểu lý", và Đức Ngài cũng không có dự tính lập thân trong đạo nên chưa từng nghĩ tới. Đoạn sấm ký này cũng đã khải lộ vị trí của đỉnh núi nơi Đức Ngài sẽ đăng sơn được nói qua trong đoạn trước. Nó nằm ở một vùng sâu rất vắng người thuộc Tây Nguyên của đất nước và đứng trên đỉnh núi đó chỉ nhìn thấy núi liền núi mây giăng phủ mịt mờ như sóng biển đúng với câu "sơn liên đầu một dãi thủy ba". Đoạn sấm ký này cũng khải lộ độ tuổi của Đức Ngài vào thời điểm sấm ký xuất thế (1967). Lúc đó Đức Ngài đã giáng sinh rồi nhưng nhân thân hãy còn ở độ tuổi quá nhỏ cho nên Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu mới than thở rằng "con ơi còn đó chờ ra bao giờ". Tất nhiên Đức Ngài đã hạ sanh trong khoảng thời gian 1949-1967. [Chú giải của người soạn.]
Nội dung sấm ký 7.1 đã khải lộ khá nhiều điều về nhân thân của "Trào Tam Xuất Thế". Nhờ vào đó chúng ta có thể rút ra được 10 điểm mấu chốt về Đức Ngài: [Chú giải của người soạn.]
1. Có danh tánh là Hà Quốc;
2. Có học vị cao và kiến thức rộng;
3. Nhiều kinh nghiệm sống và lịch lãm;
4. Cuộc đời nếm trãi nhiều sóng gió, cay đắng;
5. Ý chí rất kiên định và dám sống cho lý tưởng;
6. Rất hiếu thảo nhưng bị thân nhân bài xích;
7. Sống với tiêu chuẩn tùng thiên ý, thanh bần thường lạc, phụng sự quần chúng, trung can nghĩa đảm, gìn giữ cõi bờ;
8. Đã nhận sứ mạng, nhận thiên thơ, nhận pháp thiền, và tu chứng trong thời gian ở trên núi;
9. Núi đó nằm tại vùng sơn thái rộng lớn thưa người, trên đỉnh núi đó chỉ thấy núi liền núi và nhiều mây mù giăng phủ như sóng biển, từ đó suy đoán có nhiều khả năng vùng núi này có lẽ là tại Tây Nguyên Việt Nam;
10. Được sinh ra trong khoảng 1949-1967, như sấm ký đã khải lộ, và dựa vào lời Mẹ Diêu Trì than thở vào thời điểm 1967 "Con ơi còn đó chờ ra bao giờ" thì có thể đoán là lúc đó còn chưa tới tuổi trưởng thành (chưa tới 18 tuổi) từ đó có thể đoán tiếp khả năng cao là thuộc vào thế hệ 195X.
Tất cả các điểm mấu chốt này đều ứng nghiệm trên nhân thân của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam thế danh Hà Hưng Quốc. [Chú giải của người soạn.]
7.2
Năm Bính Thân 2016, một người đàn ông ở độ tuổi trên 50, họ Hà tên Hưng Quốc, đã đăng sơn tại một vùng núi ở Tây Nguyên. Đỉnh núi có cao độ 1200 mét tại một vùng vắng người chưa có tên trên bản đồ hành chánh. Trên đỉnh núi đó ông Hà đã nhận được nhiều ân sủng phi thường. Thông qua mật đàn Bảo Đà trên Thổ Đầu Sơn, chư vị vô hình trên Đài Cao Linh Tiêu đã khải lộ vô số điều quan trọng. Tư liệu rất riêng tư, giữa ông Hà và chư vị vô hình trên Đài Cao Linh Tiêu, được Hội Thánh Giáo Hội Thiên Trường chia sẽ một phần trên mạng onglaidoky3.com, truy cập https://onglaidoky3.com/. Sau này ông Hà trở thành Đức Thể Nguyên của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên và là Giáo Tông Hữu Hình và Vô Hình của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. Nội dung sấm ký 7.2 dưới đây xuất xứ từ nguồn tư liệu đó cho nên chỉ nói về hoặc nói với ông Hà chứ không là ai khác. [Chú giải của người soạn.]
"HUYỀN THIÊN [Huyền Thiên!]
HOÀNG KHAI GIA THỨC TỬ HIỀN NHI [Hiền nhi! Hoàng gia tử của Mẹ!]
HÓA KIẾP TRẦN TIẾP LỆNH CỦA MẪU NGHI [Tiếp lệnh của Mẫu Nghi! Hóa thân xuống trần]
KHAI QUỐC ĐẠO HÓA HÌNH CUỘC THẾ [là để khai Quốc Đạo hóa hình thế cuộc]
GIÁO DƯƠNG SANH GIA HÌNH ĐẶNG ĐỂ [có thân nơi dương gian đặng để giáo chúng]
PHÁP HIỆN HÀNH CHUYỂN VẬN NAM BANG [để hiện pháp vận hành chuyển hóa Nam Bang]
THIÊN NHÂN HÓA THỂ ĐÃ HỌP ĐÀNG [các Thiên đã xuống thế hóa thể Nhân để họp đàng]
CHUNG QUY QUỐC TỔ CON VÀNG GẮNG GHI [chung quy với QuốcTổHuỳnh. Con gắng ghi]
LỜI TA NÓI CHUYỂN THÌ CƠ LỊNH [lời Mẹ nói. Chuyển cơ lệnh Mẹ dạy, van xin con giác tử]
DẠY, VAN XIN GIÁC TỬ HỌA CHI HÌNH [hãy biến cơ lịnh cho thành hiện thực nơi thế gian]
BAO LẦN TRẺ ĐÃ HY SINH... [Mẹ biết bao lần rồi con đã hy sinh]
[Khoán thủ: Hoàng Hóa Khai Giáo (Hoàng Thiên hóa thân khai đạo giáo chúng). Pháp Thiên Chung Lời Dạy.]
DUYÊN ĐÃ ĐỊNH, DUYÊN PHẦN ĐÃ ĐỊNH [duyên đã định, duyên phần của con đã định]
CHUYỂN CƠ BÀI PHÚC LỆNH CỦA HOÀNG THIÊN [chuyển cơ bài để con phục lịnh Cha]
ĐỘ NHƠN SANH ĐẶNG BƯỚC LÊN THUYỀN [độ nhơn sanh cho bước lên thuyền đạo]
TỪ CUNG CỦA MẸ, DẠ LÒNG CỦA CHA." [đây là lòng từ của Cha Mẹ dành cho nhơn chúng]
[Khoán thủ: Duyên Chuyển Độ.]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Ngọ, ngày 25 tháng 7 năm Bính Thân (27/8/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Ngay câu đầu của đoạn sấm ký này Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu đã gọi ông Hà Quốc là Huyền Thiên. Nói cho chính xác hơn Mẹ gọi linh thể của ông Hà Quốc là Huyền Thiên còn xác thể của ông Hà Quốc là nhân thân (kim thân) của Đức Ngài dưới thế. Nhân thân của Vô Cực Huyền Thiên dưới thế được gọi là Ngôi Hai. Và trong nhứt mạch Cao Đài nối dài Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, sự trở lại lần thứ ba của Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế, cũng là Huyền Khung Thượng Đế hay Ngọc Hoàng Thượng Đế, thì nhân thân của Đức Ngài được gọi là Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
Trong đoạn sấm này Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu cũng khải lộ Đức Ngài chính là Quốc Tổ Lạc Long Quân trở lại (người xưa trở lại) và là Huỳnh Long (con vàng) được sấm ký nhắc tới nhiều lần. Chư vị của Tam Giáo Tòa đã xuống thế "hóa thể thiên nhân" đang chờ đợi để họp đàng cùng Đức Ngài Quốc Tổ Huỳnh (Thiên Nhân hóa thể đã họp đàng, chung quy Quốc Tổ Con Vàng gắng ghi). Thiên Thượng đã sắp đặt chương trình Huyền Thiên xuống thế để nhân thân của Đức Ngài mở giáo khai Quốc Đạo (khai Quốc Đạo hóa hình cuộc thế), để bồng bế chúng sanh lên thuyền Đại Đạo vào kỳ chót. Sứ mạng này là duyên phần dành cho Ngôi Hai Trào Tam. Đức Ngài Con dưới thế phải chấp lệnh của Đức Ngài Cha trên Đài Cao Linh Tiêu và biến cơ lệnh vô hình thành hiện thực hữu hình dưới thế gian. [Chú giải của người soạn.]
"ÂN THIÊN PHÚC GỞI CHUYỂN HUYỀN NAM BANG [ơn phúc Trời gởi HuyềnThiên NamBang]
CON TRẺ HỠI ĐẠO VÀNG CON NHẬN [con trẻ hỡi Đạo Huỳnh con nhận lãnh]
DẠ CHI THIÊN TÁC DẠ HỘ CHI THIÊN [dạ Trời tạc dạ con Trời]
DẠ CHI THIÊN TÁC DẠ TỬ CHI HIỀN [dạ Trời tạc dạ con hiền]
DI THIÊN GIẢ TỬ DI HOÀNG KHAI SỨ LỆNH." [Hoàng Di Thiên con Ta hãy khai sứ lệnh]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Tý, ngày 24 tháng 8 năm Bính Thân (29/9/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HUYỀN là Huyền Thiên, là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, là "Trào Tam Xuất Thế". HUYỀN NAM BANG là Huyền Thiên trên đất Nam Bang. HOÀNG DI THIÊN là Hoàng Thiên xuống thế đi giữa thế gian, là Ngôi Hai Trào Tam. DI THIÊN GIẢ TỬ DI HOÀNG KHAI SỨ LỆNH hay HOÀNG DI THIÊN GIẢ DI TỬ KHAI SỨ LỆNH tức là nói này ông Hoàng Di Thiên (Hoàng Di Thiên giả) con Ta dưới thế (di tử) hãy khai sứ lệnh. Và sứ mệnh đó đã được nói trước trong câu thứ hai của đoạn sấm ký này là Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba (đạo vàng con nhận). [Chú giải của người soạn.]
Ông Hà Quốc đã "phục lệnh" Thiên Hoàng Cha và đã lưu lại trên núi để tu tập để "khai mở tâm linh trọn vẹn" cho đến khi nhận lệnh xuống núi hành sự. Kể từ đó ông Hà Hưng Quốc chính thức trở thành Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam và thế là "Trào Tam Xuất Thế". [Chú giải của người soạn.]
"DẶN ĐÔI LỜI CON NHỚ NGÀY NAY [ngày nay Mẹ dặn đôi lời cho con nhớ]
TRAO ẤN LỆNH KIM BÀI CHUYỂN THẾ [trao ấn lệnh kim bài cho con chuyển thế]
THAY LỆNH MẸ CON THUYỀN BỒNG BẾ [thay lệnh Mẹ, thuyền từ con bồng bế chúng sanh]
CHÚNG SANH MÊ GIÁC TỬ CHƯA HỒI ĐẦU [chúng mê chưa hồi đầu nên Giác Tử chưa về]
CON ƠI GIÁO PHÁP NHIỆM MẦU [con ơi con giáo pháp nhiệm mầu con đã lãnh ngộ]
CON THỜI LÃNH NGỘ ĐỂ VỀ DƯƠNG GIAN [để nay về dương gian kỳ ba này]
KHAI CHƠN LÝ ĐẠO VÀNG CỦA MẸ [khai chơn lý Đạo Vàng của Mẹ]
GIÚP NHÂN SANH THOÁT CẢNH ĐẢO ĐIÊN [giúp nhơn sanh thoát cảnh đảo điên]
HÓA THẦN, HÓA THÁNH, HÓA TIÊN [giúp họ hóa thần, hóa thánh, hoá tiên,]
HÓA THÂN BỒ TÁT ĐỂ VỀ NHÂN GIAN. [hóa thân bồ tát. Đó là lý do để con về nhân gian]
NHI NHI TỬ AN LÀNH CUỘC THẾ [con ơi con sẽ an lành trong cuộc thế]
THƯƠNG GIA SINH MẸ BỒNG BẾ CON MÀ [thương con mình Mẹ bồng bế con mà]
DI GIA KHAI HOÀNG TỬ ĐÁO LAI [Hoàng Di Tử con của Mẹ trở lại nhân gian]
THƯƠNG CON TRẺ NGÀY NGÀY CHƯA AN GIẤC [thương con trẻ ngày ngày chưa an giấc]
THƯƠNG CON TRẺ BẬN LÒNG NHI TỬ [thương con trẻ bận lòng vì con cái]
CHỈ CUỘC CỜ MẸ MÃI THỬ CON THƠ [chỉ vì cuộc cờ Mẹ mãi thử con thơ]
ẨN THÂN PHÚC DẠ ĐỢI CHỜ [hãy ẩn thân cam dạ đợi chờ]
THIÊN NHIÊN DĨ ĐỊNH CUỘC CỜ NAM BANG. [thiên nhiên đã định cuộc cờ Nam Bang]
TRỜI CHA ĐẤT MẸ XỐN XANG [Cha Trời Mẹ Đất xốn xang]
HÓA THẦN HÓA THÁNH KÊU ĐÀN CON THƠ [hóa thần hóa thánh gọi đàn con thơ]
DƯƠNG GIÁC TỬ BÀN CỜ TIÊN QUỐC [Giác Tử tại trần là bàn cờ của Tiên QUỐC]
NGỘ NGỘ HÌNH, NGỘ NGỘ HÌNH, NGỘ LẮM CON ƠI [ngộ ngộ hình ngộ lắm con ơi]
LÀM SAO NÓI HẾT ĐẠO TRỜI [Đạo Trời làm sao nói cho hết được]
LÀM SAO NÓI HẾT MỘT ĐỜI CHƠN MINH." [một đời con chơn minh cũng làm sao nói hết]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Dậu, ngày 1 tháng 10 năm Bính Thân (31/10/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
TRỜI CHA là nói Càn Đế. ĐẤT MẸ là nói Khôn Đế. TRỜI CHA ĐẤT MẸ tuy là nói hai nhưng thực ra chỉ có Một Ngôi Chí Tôn duy nhứt nhưng triển hiện trong đạo ngôn và đạo lý thành hai ngôi âm dương. HOÀNG DI TỬ là nói Hoàng Di Thiên, là nói Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. DƯƠNG GIÁC TỬ là đứa con đã giác ngộ đang có mặt trong dương gian. TIÊN QUỐC là ông Tiên tên QUỐC, mà cũng là nói về Thiên Quốc (Nước Trời). [Chú giải của người soạn.]
Trong thời gian Đức Ngài lưu lại trên núi để tu hành, Mẹ Kim Mẫu Diêu Trì Vô Cực Từ Tôn cũng đã nhiều lần gởi thị giả của Mẹ xuống Thổ Đầu Sơn để thúc giục Đức Ngài Hoàng Di Thiên tích cực hơn trong công việc vô vi cho kịp cơ kỳ vận hành. [Chú giải của người soạn.]
"(tiếng thiêng)__ mong Người hãy gắng lo _(tiếng thiêng)__ gấp rút công việc của Đại Đạo ___(tiếng thiêng)_ vì máy tuần hoàn vận hành xoay chuyển __(tiếng thiêng)__ kiếp nhân hạ phải __(tiếng thiêng)_ ứng hóa cho kịp chu kỳ mở khai và __(tiếng thiêng)__ sự chuyển vận của Nam Quốc __(tiếng thiêng)__. Hổ Di con giả từ Hoàng Di Thiên _(tiếng thiêng)_. Nam Mô A Di Đà Phật."
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Mão, ngày 6 tháng 8 năm Bính Thân (06/9/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HỔ là Hổ thẹn. DI là không thấy, vô ảnh vô hình. HỔ DI là một cách xưng hô khiêm nhường của một vị thị giả của Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu trên cõi Tạo Hóa Thiên. Vị này đọc nguyên văn (tiếng thiêng) huấn từ của Mẹ gởi cho Đức Ngài rồi dịch qua tiếng Việt từng câu kèm theo cho Đức Ngài nghe. [Chú giải của người soạn.]
Mẹ Kim Mẫu Diêu Trì cũng đã nhiều lần ân cần nhắc nhở Đức Ngài Hoàng Di Thiên phải giữ tâm thanh tịnh, "phải thắng được nguồn ma, đừng để những ý niệm của tâm phát khởi mà dẫn dắt ta đi con đường mê lầm", "dùng thể thanh tịnh thể chơn như để đi vào nhân sinh", "để hóa chuyển, để giữ lại dòng chánh pháp được lưu truyền mãi", và "phải đủ sự tỉnh giác, minh trí, và lòng thanh tịnh mà vững bước đi vào con đường chuyển thế." [Chú giải của người soạn.]
"Hiền nhi là con của Mẹ, cầm sắc lệnh đi vào đời để cứu nhơn sanh. Máy tuần hoàn vận hành, thiên đạo vận chuyển, tất cả các hiền nhân cũng hội tụ về dùng chánh pháp để độ đời, dùng thể thanh tịnh thể chơn như để đi vào nhân sinh để hóa chuyển, để giữ lại dòng chánh pháp được lưu truyền mãi. Tất cả hàng thiên binh thiên tướng, chư thần hộ pháp lúc nào cũng hộ đàn và bảo vệ cho tất cả hàng linh tử của Mẹ được an bình trong chánh pháp. Tất cả chúng ta phải thắng được nguồn ma, đừng để những ý niệm của tâm phát khởi mà dẫn dắt ta đi con đường mê lầm. Phải đủ sự tỉnh giác minh trí và lòng thanh tịnh mà vững bước đi vào con đường chuyển thế. Tất cả __(tiếng thiêng)__ phải bị đào thải theo nhân duyên của chính nó."
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Dậu, ngày 27 tháng 8 năm Bính Thân (27/9/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
"HOÀNG NHI PHỤC LỆNH! [Hoàng nhi phục lịnh]
THIÊN DĨ ĐỊNH THIÊN NHIÊN THỜI DĨ ĐỊNH [Thiên Trời đã định, Thiên Trời dĩ nhiên định]
NAY GIA TỬ CON VỀ CHẤP LỆNH [nay gia tử con Ta về đây chấp lệnh]
HÓA THIÊN NHÂN, HÓA THỂ THIÊN NHÂN [hóa Thiên Nhân, hóa thân Thiên Nhân]
CÙNG CHUNG HỌP MẶT THÁNH THẦN [với chư Thánh Thần cùng chung họp mặt ]
CHUYỂN XÂY CƠ QUỐC NAM PHẦN CON A [chuyển xây Nam Quốc cơ phần con ạ]
NAY TẤT LỆNH CHA GIÀ PHÁN QUYẾT [nay tất lệnh Cha Già phán quyết]
CON GIỮ GÌN ĐẠO CẢ NƠI TÂM [con phải giữ gìn đạo lớn nơi tâm]
CON GIỮ GÌN MỖI BƯỚC ÂM THẦM [con giữ gìn mỗi bước và âm thầm]
CHỜ MỘT CẢNH CON TẦM BỚ TRẺ [chờ một cảnh... con tự hiểu đi bớ trẻ]
CHA GỞI TRẺ ĐÔI LỜI NHƯ THỂ [Cha gởi trẻ đôi lời, như thể]
HÓA PHÉP MẦU TA KỂ CON NGHE [hóa phép mầu Ta thủ thỉ bên tai kể con nghe]
Nay Trời đã vẹt màn the..." [nay Trời đã vẹt màn the]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Tý ngày 18 tháng 10 năm Bính Thân (17/11/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
"ĐẠO CỦA TRỜI TẤT LỆNH PHẢI HÀNH Y [Đạo của Trời con phải hành theo lệnh cho y]
HÒA CÙNG THẾ TRỌN TÌNH THIÊN Ý [hòa cùng nhân thế cho trọn tình thiên ý]
THƯƠNG NHÂN SINH ĐÔI LỜI TA CHỈ DẠY [thương nhân sinh đôi lời Ta chỉ dạy]
HÓA PHÉP MẦU HÓA HIỆN TRẦN GIAN [hóa phép mầu con hóa hiện xuống trần gian]
ĐỦ CƠ DUYÊN KHAI ÁNH ĐẠO VÀNG [con đủ cơ duyên để khai ánh Đạo Vàng]
HÓA SANH XUỐNG THẾ MỞ MÀN NAM BANG [con hoá sanh xuống thế khai tuồng NamBang]
CHA ĐÃ DẠY LỜI VÀNG THIÊN QUỐC [lời vàng của Cha đã dạy Thiên Quốc]
MẸ BẢO GÌN CON LIỄU CƠ DUYÊN [Mẹ bảo gìn con thấu đáo cơ duyên]
NAY CON ĐÃ NGỘ CHƠN TRUYỀN [nay con đã ngộ được chơn truyền]
THIÊNG LIÊNG DĨ ĐỊNH NHI HIỀN GẮNG LO [Thiêng liêng đã định con hiền ráng lo]
MỘT LẦN CHÓT CON DÒ CHO KỶ [một lần chót con lần dò cho nghiêm nhặt]
MỘT LỆNH TRUYỀN NGỤ Ý TIÊN GIA [một lệnh truyền rõ ngụ ý của Tiên Gia]
MỘT LỆNH THIÊN XÂY DỰNG THÁP TÒA [lịnh Trời xây dựng một tháp Tòa]
MỘT CƠ QUỐC CÒN DÒ MINH CHÚA [cơ đất nước còn dò tìm Minh Chúa]
DƯƠNG GIA TỬ CON VỀ QUÁ CẢNH... [con về dương gian chỉ là tạm thời quá cảnh]
HIỂN CƠ BÀI CON NHẬN LÃNH GIA XINH [hiểu cơ bài con nhận sứ mạng cưu mang]
ĐẠO ĐỜI TRẺ PHẢI HY SINH [đạo lẫn đời con trẻ phải chịu hy sinh cho nhân gian]
TRÒN CÂU ƯỚC NGUYỆN TÂM MINH CON À [tâm sáng con sẽ tròn câu ước nguyện]
(mất vài chữ) THƯỢNG MẸ GIÀ CHỜ ĐỢI [trên cõi Thiên Thượng Mẹ Già chờ đợi]
HÓA CUỘC HÌNH MẸ GỞI NƠI CON THƠ [làm thành hiện thực hữu hình Mẹ phải nhờ con]
BÀN TAY MẸ SẮP VUÔNG TRÒN [còn Mẹ thì lo sắp đặt cơ cuộc trong vô hình]
CHO CON GIA TỬ DI HÀI HIỂN THÂN [cho con của Mẹ hiện thân dưới thế]
CÙNG CHUNG HIỆP MẶT QUÂN THẦN [rồi quân thần hiệp mặt dưới trần chung tay]
GIÚP XÂY CƠ QUỐC THÁNH NHÂN ĐÁO HỒI [xây cơ Quốc Thánh Nhân xong thì trở về]
GIA TỬ GIẢ DUYÊN THỜI DI TỬ [con của Mẹ đặng duyên thời nên xuống thế]
DĨ CUỘC CỜ QUÁ BƯỚC TRẦN GIAN [một cuộc cờ quá bước xuống nhân gian]
DẠ SINH THIÊN QUÁ CẢNH TRẦN HOÀN [lòng dạ Trời sinh quá cảnh chốn trần hoàn]
CON ƠI HỠI TÂM VÀNG TA GỞI [con ơi hỡi tâm vàng của Mẹ gởi gấm nơi con]
CON ƠI HỠI MẸ HIỀN ĐÃ TỚI [con ơi hỡi Mẹ hiền đã tới cạnh bên con]
GIÚP CHO CON GIA TỬ DI THINH [giúp cho con, gia tử của Mẹ, nên cất tiếng vô âm]
GIÚP CHO CON QUÁ CẢNH HIỆN SINH [để giúp con quá cảnh nơi trần miền đang sống]
THAY LỆNH MẸ HÓA HÌNH CUỘC THẾ [thay Lệnh Mẹ để hiện thực hóa cơ cuộc dưới thế]
THAY LỆNH MẸ CON THUYỀN BỒNG BẾ [thay Lệnh Mẹ thuyền đạo con bồng bế chúng nhân]
ĐẠO VỚI ĐỜI CHẲNG KỂ CHI CHI [đạo lẫn đời con phải chịu hy sinh không nệ]
DẠ SINH THIÊN GIA TỬ HÀNH Y." [lòng dạ Trời sinh nên gia tử phải làm đúng lời Mẹ dạy]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Tý, ngày 18 tháng 10 năm Bính Thân (17/11/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Thiên Cha và Thiên Mẹ trên Ngọc Tòa Linh Tiêu cũng cho biết là có rất nhiều Thiên Long và Thiên Hoa đang có mặt dưới thế gian và đang chờ đợi hội về họp mặt để lo chung cơ cuộc của Thánh Triều. Thiên Hoàng Cha ban lệnh và ban ơn lành cho Đức Ngài Hoàng Di Thiên triệu hồi các Thiên Nhân này về Thánh Triều. Chư thiên (trong vô hình) cũng chờ lịnh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên để làm theo sự điều động. [Chú giải của người soạn.]
"_(tiếng thiêng)__ Hổ Di con có đôi lời trình thưa qua. _(tiếng thiêng)_ Từ trên Thiên Tòa của Cha _(tiếng thiêng)__ và Thiên Mẫu _(tiếng thiêng)__ chuyển cơ lệnh _(tiếng thiêng)__ mang xuống thế gian này. _(tiếng thiêng)_ Các cung các cõi _(tiếng thiêng)__ và các _(tiếng thiêng)__ hàng hàng thiên lệnh _(tiếng thiêng)__ có mặt trong cõi nhân gian _(tiếng thiêng)__ cùng nhau _(tiếng thiêng)__ hòa hiệp _(tiếng thiêng)_ để về chung lo trong cơ cuộc của Thánh Triều. _(tiếng thiêng)__ Nay trên thiên lệnh _(tiếng thiêng)__ Cha ban ơn lành _(tiếng thiêng)_ cho Hoàng Di Thiên của Mẹ _(tiếng thiêng)__ triệu hồi tất cả hàng chơn linh tử _(tiếng thiêng)__ để _(tiếng thiêng)_ chư thiên đang chờ để phục lệnh _(tiếng thiêng)__. Họ đang chờ Ngài. Mô Phật."
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Mão, ngày 2 tháng 11 năm Bính Thân (30/11/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THÁNH TRIỀU là nói Triều Đình Đạo, tức là một tập thể gồm vị một vị Giáo Tôn đứng đầu và chức sắc lãnh đạo cấp cao của một tôn giáo. [Chú giải của người soạn.]
"_(tiếng thiêng)_ Hổ Di con xin chuyển đôi lời đến _(tiếng thiêng)_ Hoàng Di Tử của Mẹ: _(tiếng thiêng)__ Cơ chuyển vận của Nam Triều, _(tiếng thiêng)_ cơ qui nhất _(tiếng thiêng)__ của _(tiếng thiêng)__ Quốc Tổ, nên _(tiếng thiêng)_ các _(tiếng thiêng)_ triều đại _(tiếng thiêng)_ của nước Việt _(tiếng thiêng)_ trở về _(tiếng thiêng)_ phục lệnh chiếu, _(tiếng thiêng)_ phục lệnh _(tiếng thiêng) _ Minh Chúa, _(tiếng thiêng)_ nên _(tiếng thiêng)_ trao ấn lệnh lại, _(tiếng thiêng)_ cùng tất cả _(tiếng thiêng)_ để _(tiếng thiêng)_ phò Minh Chúa chuyển xây _(tiếng thiêng)_. Ấn lệnh đã được chuyển giao _(tiếng thiêng)_ và hàng chư thiên tam tử _(tiếng thiêng)_ tất cả cũng hội tụ về _(tiếng thiêng)__ để phò _(tiếng thiêng)__ ngôi Minh Đế. Xin _(tiếng thiêng)_ Thiên Hoàng _(tiếng thiêng)_ thu nhận để các vị _(tiếng thiêng)_ làm tròn _(tiếng thiêng)_ sứ mạng của mình. _(tiếng thiêng)_. Nam Mô A Di Đà Phật."
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Mão ngày 5 tháng 11 năm Bính Thân (03/12/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
HOÀNG DI TỬ là nói "Trào Tam Xuất Thế", nói Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. THIÊN HOÀNG là nói Thiên Hoàng dưới thế trong một nhân thân, nói Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế hóa thân xuống phàm trần, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. QUỐC TỔ là nói Quốc Tổ Lạc Long Quân, Tổ đầu tiên của đất nước Việt Nam, Tổ đầu Tiên của 18 dòng Vua Hùng. Từ ngày dựng nước đến nay, mỗi "chân mạng thiên tử" xuống thế để khai mở một triều đại mới đều có ấn lệnh của Hoàng Thiên. Nay tất cả các tiên đế của Nước Việt (trong vô hình) đều mang ấn lệnh của mình giao lại cho Thiên Hoàng dưới thế, tức Đức Ngài Hoàng Di Thiên. Tùng theo cơ quy nhất mà Thiên Đình đã đặt định, tất cả đều phải tụ tề về để phò Minh Chúa. Hai chữ Minh Đế hay Minh Chúa không có ý nói ngai vị vua chúa thế gian mà là nói ngôi vị Giáo Tôn của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, vì Đế đây là nói Ngọc Đế và Chúa đây là nói Chúa Thiên. [Chú giải của người soạn.]
Trước khi Đức Ngài xuống núi thực hiện cơ thiên, Thiên Hoàng Cha cũng có đôi lời nhắn nhủ với nhân chúng thế gian. Thiên Hoàng khuyên chúng nhân hãy suy nghĩ từng lời của Cha cho thật nghiêm túc. [Chú giải của người soạn.]
"HẠN CUỐI CÙNG KỲ CHÓT ĐÁO LAI [đã đến hạn cuối lần chót con Ta đáo lai]
HÒA CÙNG THẾ GIÚP ĐỜI THẠNH TRỊ [hòa cùng nhân thế giúp đời thạnh trị]
MONG SANH CHÚNG TÂM THỜI SUY NGHĨ [mong sanh chúng có tâm thì ráng suy nghĩ]
TẦM ĐẠO MẦU CHÁNH LÝ HUYỀN VI [rồi tầm đạo mầu chánh lý huyền vi]
ĐẠO THIÊN TIÊN KHAI ÁNH HUỲNH KỲ [là thời kỳ Đạo Thiên Tiên khai ánh Huỳnh]
TẦM CHO RÕ!... [tìm hiểu cho rõ!]
TẦM CHO RÕ CON TẦM CHO RÕ [chúng sanh các con tìm hiểu cho rõ!]
CHUYỂN CƠ PHÁP HUYỀN VI HÓA HIỆN [cơ pháp huyền vi chuyển, hóa hiện chốn trần]
CHỐN TRẦN MIỀN GIA THỨC TỬ HIỀN NHI [con nhà Ta Hoàng Di Thiên hiền nhi của Mẹ]
GIÁO DƯƠNG SANH BUỔI CUỐI KỊP KỲ [sanh nơi dương gian giáo buổi cuối cho kịp kỳ]
CHO NHÂN LOẠI CÒN TÙY PHÚC DẠ [cứu nhân loại, nhưng còn tùy có phước dạ hay không]
LỜI TIÊN THÁNH ĐÔI CÂU HỐI HẢ [lời tiên thánh Ta nói đôi câu hối hả]
KIẾP NHÂN LOÀI KHỔ LỤY LẮM ĐA [kiếp con người nhiều khổ lụy lắm đa]
CHUYỂN CƠ BÀI PHÚC LỆNH HOÀNG GIA [phúc lệnh của Hoàng Thiên Ta chuyển cơ bài]
CHO NHÂN THẾ HIỂU ĐÀN CƠ QUỐC." [cho thế nhân hiểu cơ đàn của ông Quốc]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Dần, ngày 13 tháng 11 năm Bính Thân (11/12/2016), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
GIA THỨC TỬ HIỀN NHI là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên, Ngôi Hai Trào Tam. GIÁO là hoằng giáo, thuyết giáo, dạy đạo. DƯƠNG SANH là cõi sống nơi dương gian. KỊP KỲ là kịp thời kỳ Hạ Ngươn Tận Diệt lập Thượng Ngươn Thánh Đức. [Chú giải của người soạn.]
Cuối cùng rồi thì cũng đến lúc phải chuẩn bị hạ sơn thực hiện sứ mạng, "Mẹ dạy, van xin giác tử họa chi hình", để biến cơ thiên thành hiện thực hữu hình. Trong đàn pháp kéo dài ba ngày Tết của năm Đinh Dậu 2017, chư vị Thượng Thiên đã giáng đàn ấn ký hiệp ước làm bằng chứng tái khẳng định sự phò trợ của các vị dành cho Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Hiệp Ước Tam Nhật Đàn mở đầu với bốn câu: [Chú giải của người soạn.]
"CHƯỞNG QUẢN THIÊN TÔN
KHAI ĐÀN MINH CHIẾU
HỒNG BÀN LẬP HỘI
ĐỊNH VIỆC TRIỀU CA."
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Tý, ngày Mùng 3 tháng Giêng năm Đinh Dậu Thân (30/1/2017), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
Kết quả sau ba ngày đàn là một cuộn Hiệp Ước Tam Nhật Đàn dài hơn 20 mét với khổ rộng 1/2 mét đầy chữ thiêng và linh phù của các đấng vô hình giáng đàn chấp bút ấn sắc. Sau khi xuống núi Đức Ngài theo lệnh Thiên Thượng đã đến gặp mặt "Ông Đạo Hương Kỳ" của Bửu Sơn tại Cà Mau và đã trao cuộn Hiệp Ước Tam Nhật Đàn cho ông giữ. Ông Đạo Hương Kỳ triệu tập cuộc họp để Đức Ngài gặp mặt và trao đổi với các môn đệ Bửu Sơn, cũng như để trả lời các câu hỏi của các vị vô hình phò trợ đạo Bửu Sơn. Sau khi đã "phối kiểm tâm linh" và xác nhận thân phận của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, tất cả đồng ý hòa lập Bửu Sơn Huỳnh Đạo (tân Bửu Sơn) và ngôi thờ Phật Thầy Tây An tại gia đã được xây dựng lại và nâng cấp thành Tòa Đình Quốc Nội. [Chú giải của người soạn.]
Một sắc chiếu chữ thiêng cùng chữ Việt do Bát Nương Di Hoa Kim Hải, cũng là Bát Nương Phật Mẫu của Diêu Trì Cung, thay mặt Đức Ngài Hoàng Nhị Thiên Ngôi Hai Trào Tam để xử lý các công việc trong vô hình, đã tiếp nhận văn bản TRAO QUYỀN CỨU THẾ rồi đích thân chấp bút và trao tay Đức Ngài văn bản này. Ba ngày sau Bát Nương đã phát bố cáo phát khắp trong ba cõi. [Chú giải của người soạn.]
"HOÀNG THIÊN ĐẠI TỪ PHỤ, [Thiên Hoàng Cha Đại Từ]
CHÍ TÔN ĐẠI TỪ MẪU, [Mẹ Chí Tôn Đại Từ]
TAM GIÁO THÁNH TÒA VỊ. [Chư Thiên Tôn Tam Giáo Tòa]
CHUYỂN BÚT PHÁP TRAO VỀ NHÂN HẠ [chuyển bút pháp trao về "nhân hạ"]
CHUYỂN HUYỀN VI ẤN ĐỊNH TAM KỲ [ấn định Kỳ Ba chuyển huyền vi]
CHUYỂN ĐẠO MẦU HIỆP VỚI NHÂN SANH [hiệp với nhân sanh chuyển Đạo Mầu]
CHUYỂN BỬU PHÁP KHAI HUỲNH KỲ ĐẠO [khai kỳ Huỳnh Đạo chuyển Bửu Pháp]
LỆNH TAM GIÁO HIỀN NHÂN Y THẢO [lệnh Tam Giáo Tòa "hiền nhân" y nguyên văn]
NHẤT BỔN HÀNH HIỆP NHẤT TAM THIÊN [tam thiên hiệp nhất một bổn y hành]
TIẾNG NHÂN SANH HÓA HIỆN TRẦN MIỀN [hóa hiện trần miền nói tiếng nhân sanh]
GIỜ ĐẠI ĐẠO CHUYỂN QUYỀN CỨU THẾ." [nay Đại Đạo chuyển quyền cứu thế.]
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Dần, ngày 23 tháng 2 năm Đinh Dậu (20/3/2017), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn. Thị giả bát Nương Diêu Trì Cung.)
NHÂN HẠ, HIỀN NHÂN là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. CHUYỂN QUYỀN CỨU THẾ là chuyển quyền Lập Đạo, Khai Giáo cứu thế gian trong Kỳ Ba này. Nói chuyển quyền là vì Kỳ Hai đã mãn và các vị Giáo Chủ Kỳ Hai đã hết hạn được ủy quyền cứu thế. Trào Một và Trào Hai của Cao Đài cũng đã mãn nhiệm kỳ. Nay "Trào Tam Xuất Thế" để Đức Thánh Chúa Trào Tam làm nhiệm vụ cứu thế trong Kỳ Ba này. Chuyển quyền cứu thế có đầy đủ ấn chứng của cả ba cơ quan (Tòa Bạch Ngọc, Tòa Kim Loan, và Tòa Tam Giáo). Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam phải phụng lệnh y hành như văn bản đã gởi xuống. [Chú giải của người soạn.]
Bát Nương cũng bố cáo một thông điệp khắp trần miền để chúng nhân biết thời kỳ Trào Tam Xuất Thế đã tới rồi. Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam sẽ từ Tây Phương trở về Nam Bang để giáo khắp trần miền. [Chú giải của người soạn.]
"NGỌC ĐÀI MINH CHIẾU
ĐẾ XUẤT NAM PHẦN
HOÀNG VỊ ĐỊNH NGÔI
THƯỢNG AN CHƯ QUỐC.
[Khoán thủ: Ngọc Đế Hoàng Thượng]
"DIÊU PHÁP TRẦN MIỀN
TRÌ CƠ ĐẠI ĐẠO
KIM NGÔN XUẤT BẠCH
MẪU NGỰ TRẦN GIAN.
[Khoán thủ: Diêu Trì Kim Mẫu]
"TAM QUY NHỨT THỂ
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
THÁNH NGÔN CHI LỆNH
TÒA BẠCH NGŨ QUAN."
[Khoán thủ: Tam Giáo Thánh Tòa]
TÌNH THƯƠNG ĐẠI ĐẠO
TRỞ VỀ NAM BANG
GIÁO KHẮP TRẦN MIỀN
KHAI NỀN KỲ ĐẠO
HỒI QUY TAM GIÁO
LỆNH CHUYỂN MUÔN PHƯƠNG
TRỞ VỀ ĐẠI CỰC
KIM NGÔN ỨNG XUẤT
HIỆP PHÁP ĐỜI TÂN
BỐ KHẮP TRẦN MIỀN
ĐIỂN HUYỀN KIM HẢI."
(Trích dẫn MẬT ĐÀN, đàn giờ Dần, ngày 29 tháng 2 năm Đinh Dậu (26/3/2017), nơi tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN. Hiệp thiên huyền nữ Kim Ngọc Hải Huyền tiếp điển. Thị giả Bát Nương Diêu Trì Cung.)
ĐẠI CỰC là nói địa cực, là nói vùng đất cực nam của Tổ Quốc, là nói Cà Mau Hà Tiên. [Chú giải của người soạn.]
7.3
Trong khoảng thời gian từ lúc ông Hà Quốc lên núi Thổ Đầu Sơn và lưu lại tu tập trên đó đã có một vị hiệp thiên huyền nam của Bửu Sơn Kỳ Hương tại thánh đàn Tắc Vân, Cà Mau nhận điển Tam Giáo Tòa chấp bút ra bài và gởi tới Đức Ngài. Vị hiệp thiên huyền nam này lúc đó chưa từng gặp mặt và đang ở cách xa Đức Ngài trên ngàn cây số. Sau này khi Đức Ngài về Cà Mau mới biết mặt và quen nhau, lúc đó mới biết ngài là Thầy Phương Vũ và ngài là "thiên bút" chính thức của Tam Giáo Thánh Tòa .
Tháp Bảo Đà trên đỉnh Thổ Đầu Sơn hoàn toàn không có sóng điện thoại và hoàn toàn vắng lặng. Hiếm khi thấy người đi ngang chân núi. Một hoặc hai tuần thì đồng tử mới xuống núi một lần đến nhà người quen cách Thổ Đầu Sơn khoảng 5 km để nhận tin nhắn. Lúc đó mới nhận được các bài sấm ký của Thầy Phương Vũ gởi tới qua điện thoại của đồng tử. [Chú giải của người soạn.]
Nội dung Sấm ký 7.3 dưới đây chỉ là một số ít trong các bài sấm ký mà Thầy Phương Vũ nhận từ Tam Giáo Tòa và đã chuyển đến Đức Ngài lúc đang ở trên núi. [Chú giải của người soạn.]
"TIẾP BƯỚC PHÁP CÔNG THƯỢNG THỚI HÒA [tiếp bước công pháp thượng thới hòa]
BÌNH TÂM THANH TỊNH TIẾP VUA CHA [bình tâm thanh tịnh tiếp Vua Cha]
THI VĂN ĐẠO GIÁO KINH MẠNH, KHỔNG [kinh Mạnh Khổng thi văn đạo giáo]
THĂNG TIẾN ĐI LÊN HIỆP BỐN NHÀ. [hiệp bốn nhà thăng tiến đi lên]
BỔN LAI HÒAN TÁNH THỂ VÔ VI [bổn tánh trở về thể vô vi]
CHÚA NGỌC THƯỢNG CĂN ĐẮC ĐẠI BI [Ngôi Hai Trào Tam thượng căn đắc đại bi]
KINH LUẬT LUẬN THỜI THƠ CHỨNG ĐẠO [thơ kinh luật luận thời chứng đạo]
CHÚA TRỜI SOI LỐI PHÁP DIÊU TRÌ. [Ngôi Hai Trào Tam soi lối Pháp Diêu Trì]
TỊNH PHÁP THIÊN CĂN ĐỊNH NGỌC HOÀNG [tịnh pháp căn thiên Ngọc Hoàng định]
CỬU TRÙNG CUNG ĐỈNH CHỈ VUA BAN [đỉnh Cửu Trùng Vua Cha ban chỉ]
PHÁP TU ĐÚNG LUẬT THIÊN TRIỀU VIẾT [ Thiên Triều viết đúng luật pháp tu]
ĐỊNH VIỆC ĐẠO KỲ MINH CHIẾU QUANG. [chiếu minh quang định việc Đạo kỳ]
LIÊN ĐẠI CHƯ THIÊN HIỆN HỮU LIỀN [chư đại liên hoa thiên đang hiện diện nơi đây]
KỲ BA ĐÓN ĐỢI HIỆN HOA LIÊN [Kỳ Ba đón đợi Ngôi Hai Trào Tam họ Hà thân hiện]
TAM THANH KHẨU BẠCH NGÔN GIÁO XUẤT [Tam Thanh ứng hóa miệng lời xuất ngôn giáo]
KỶ ĐẠI LÔI THIÊN TỎA KHẮP MIỀN." [kỷ nguyên Trào Tam Xuất Thế tỏa khắp miền]
(Trích dẫn sấm ký HÀNH TRÌNH, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 15 tháng 11 Bính Thân tức 13/12/2016.)
HIỆP BỐN NHÀ là hiệp nhà Phật, nhà Tiên, nhà Thánh và nhà Chúa. CHÚA NGỌC là nói Ngọc Đế nhưng là Ngọc Đế dưới thế gian, tức nói Ngôi Hai. CHÚA TRỜI là nói Thiên Chúa nhưng là Thiên Chúa dưới thế, tức nói Ngôi Hai. HOA LIÊN là nói chữ này 荷 đọc là HÀ hoặc HẠ có nghĩa là Cây Sen hay Hoa Liên. KỲ BA ĐÓN ĐỢI HOA LIÊN là nói đón đợi Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam họ Hà. KHẨU BẠCH NGÔN GIÁO XUẤT là nói miệng Đức Ngài mở lời là xuất ngôn giáo. LÔI hay CHẤN là sấm sét, ý nói oai thinh của Trời. LÔI THIÊN là oai thinh của Ông Trời. KỶ là nói kỷ nguyên 2000. [Chú giải của người soạn.]
ĐẠI LÔI THIÊN hàm ý nói quẻ Thiên Lôi Đại Tráng, nội quái Càn ngoại quái Chấn. Ý nghĩa của quẻ Thiên Lôi Đại Tráng là: "Chí dã. Tự cường. Ý chí riêng, bụng nghĩ, hướng thượng, ý định, vượng sức, thịnh đại, trên cao, chót vót, lên trên, chí khí, có lập trường. Phượng tập đăng sơn chi tượng: tượng phượng đậu trên núi. Hết thời lui rồi thì tới thời tiến lên, tiến lên thì lớn mạnh, cho nên sau quẻ Độn tới quẻ đại tráng tức lớn mạnh." (Trích dẫn từ trang web Tử Vi Cổ Học.) Chim phượng là nói thánh nhân. Chim phượng đậu trên đỉnh núi là nói thánh nhân đăng sơn, ám chỉ Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
TAM THANH là nói Nhứt Khí hóa Tam Thanh, là nói ĐẠO. "Đạo giáo lấy Đại Đạo làm tông cội, lấy Đại Đức làm khuôn mực noi theo hầu lũy tiến trên hành trình tu học của mình. Với những trí tri căn bản nhất, ta vẫn thường nghe đến danh hiệu Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn gồm: Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn - ứng ngôi Đạo Bảo, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn - ứng ngôi Kinh Bảo, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn - ứng ngôi Sư Bảo. Dẫu Thiên Tôn nhiều danh hiệu, cư trú nhiều cung khuyết, thuyết giảng chư phẩm kinh điển, song ta vẫn thường tâm niệm: Tam Thanh nhất thể - Tam Thanh là Đạo vậy! ...Tam Thanh là hiển hiện trọn hảo của Đại Đạo. Nói vậy chẳng phải Đại Đạo chia ba, gộp ba thì thành Đạo. Một người tín nhận Đạo giáo, phải nắm rõ nguyên lý rằng: Nguyên Thủy là Đạo, Linh Bảo là Đạo và Lão Quân là Đạo. Nhiệm lý cao siêu khó lòng nói bằng ngôn từ để rốt ráo. Lại nữa, nếu ba vị hiển hiện trọn hảo của Đại Đạo, vậy có chăng có một vị thần thánh nào khác, to lớn hơn Tam Thanh? Phải khẳng định rằng: Không! Chỉ có duy nhất một Đại Đạo, và đó là Tam Thanh, tuy ba mà một, tuy một mà ba. Huyền Đạo thâm sâu khôn cùng, khó lòng thấu tận, nên Tam Thanh là hình tượng biểu trưng Đại Đạo, để chúng nhân có thể “khả tri”, có thể biết đến Đấng Bản Nguyên, hiểu được phần nào Chân Lý của mọi chân lý" (Trích dẫn từ trang web Đạo Giáo.) HOA LIÊN TAM THANH là nói Hà Tam Thanh, là nói ông Hà vốn thiệt Tam Thanh hóa thân. [Chú giải của người soạn.]
"CHU KỲ ĐỊNH ƯỚC HIỆP VUA TÔI [chu kỳ ước định vua tôi hiệp hội]
LÔI CHẤN NGŨ ĐẦU ĐỊNH THỨ NGÔI [Chấn Quốc Ngũ Đầu Sơn định thứ ngôi]
ĐẠI ĐẠO NGŨ CHI CHÀO ĐẠI CUỘC [chào đại cuộc năm chi Đại Đạo]
HƯỜN MINH VŨ TRỤ NGŨ KỲ LÔI." [vũ trụ bừng sáng trở lại. Điển bút Ngũ Kỳ Lôi.]
(Trích dẫn sấm ký HÀNH TRÌNH, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 15 tháng 11 Bính Thân tức 13/12/2016.)
LÔI CHẤN là ám chỉ Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. NGŨ ĐẦU là Ngũ Đầu Sơn là tên quần thể năm núi mà Thổ Đầu Sơn nằm chính giữa, là tên vùng núi Đức Ngài Hoàng Di Thiên đã lưu trên đỉnh Thổ Đầu để tu tập năm Bính Thân 2016-2017. LÔI CHẤN NGŨ ĐẦU là nói ông Ngôi Hai từng ở Ngũ Đầu Sơn. LÔI CHẤN NGŨ ĐẦU ĐỊNH THỨ NGÔI là nói ông Ngôi Hai Trào Tam từng ở Ngũ Đầu Sơn sẽ định thứ ngôi của chư thánh trong Đại Đạo Vô Vi Kỳ Ba Trào Tam Xuất Thế, ý nói đấng Chủ Giáo sắc phong cho các hàng giáo phẩm. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN ĐÌNH CHIẾU RỌI SÁNG TAM THANH [Ba sắc quang chiếu rọi sáng Thiên Đình]
ĐẮC QUẢ KIM THÂN CHỨNG ĐẮC PHÀM [kim thân đắc quả chứng đắc tại phàm]
HẦU TƯỚNG CÔNG TÔN THIÊN HẬU KHẢM [Hầu Tướng Công Tôn đợi chờ tương hội]
LÂU LUY CHÍN PHẨM TRIỆU GIÀ LAM [Già Lam triệu tập chín phẩm Luy Lâu]
CÂU LY TIÊN THÁNH CHÚC: THANH SƠN [Tiên Thánh vân tập đến chúc mừng]
QUỐC MẪU NƯỚC NAM HIỆU MẪU ĐƠN, [Thanh Sơn Trạng Trình cùng Quốc Mẫu,]
THIÊN TƯỚNG, QUAN ÂM, DI LẠC QUỐC [Thiên Tướng, Quan Âm mừng ông Quốc]
QUI CÀN CUNG CẤN KHẢM HOÀNH SƠN." [đã hanh thông trở lại Cung Thiên]
(Trích dẫn sấm ký HÒA CHUNG TAM THỂ, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 17 tháng 11 Bính Thân tức 15/12/2016.)
THIÊN HẬU KHẢM là nói quẻ Thủy Thiên Nhu, nội quái Càn ngoại quái Khảm (hậu khảm), ý nói "Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thời." Ý nghĩa của quẻ là "Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công." (Trích dẫn trang web Tử Vi Cổ Học.) [Chú giải của người soạn.]
GIÀ LAM là nói Phật Già Lam, là nói Cái Thiên Cổ Phật. Một lần xuống thế trong kiếp quá khứ được người đời biết đến là tướng quân Quan Vũ hay Quan Vân Trường. Đức Ngài còn được biết đến dưới danh hiệu là Hiệp Thiên Đại Đế và còn là một vị trong Tam Trấn Oai Nghiêm của thời kỳ Tam Kỳ Phổ Độ đại diện cho Thánh Đạo, danh Quan Thánh Đế Quân. CÂU LY là nói chư tiên thánh tụ tập lại. THANH SƠN là hiệu của Ngài Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. MẪU ĐƠN là hiệu của Quốc Mẫu. KHẢM 坎 là trạng thanh tiếng trống thùng thùng, ý nói "khảm kỳ kích cổ" lấy ra từ câu "khảm kỳ kích cổ Uyên khâu chi hạ" trong Kinh Thi; Tạm dịch: thùng thùng đánh trống ở dưới chân Gò Uyên. QUY CÀN CUNG là nói trở hồi Thiên Cung, về lại Thiên Đình. [Chú giải của người soạn.]
CẤM KHẢM là nói quẻ Sơn Thủy Mông, nội quái Cấn ngoại quái Khảm. Ý nghĩa của quẻ này là "Trẻ thơ được hanh thông. ...Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông." (Trích dẫn trang web Tử Vi Cổ Học). [Chú giải của người soạn.]
"TRANH ĐẤT ĐÔNG PHONG GIÓ ĐẠI TRÀO [đất phương đông tranh phong, gió đại trào]
THÁNH MINH XUẤT CHÚNG CHUYỂN ĐỒ LAO [thánh minh xuất thế chuyển chúng đồ lao]
BAO NĂM MẪU PHÁP NGÀI TU ĐỊNH [bao năm Ngôi Hai tu định pháp, Mẫu xoay chuyển]
XOAY CHUYỂN CĂN DUYÊN NGUYỆN CHÍ CAO [căn duyên chí nguyện tại Đài Cao]
ẨN PHÁP BÍ TRUYỀN MỞ ĐẠO THÂM [truyền bí pháp để mở đạo huyền thâm]
RỪNG SÂU TẦM THÁNH BIỂN TRUY TẦM [tìm rừng sâu ẩn biển thánh truy tầm]
CHUYỂN VỀ TAM GIÁO QUY TAM CÕI [Tam Giáo chuyển về quy nhân thiên địa]
HIỆP NGỮ KINH LUÂN KIẾN ĐẮC TÂM [hiệp ngữ kinh luân thấy được chơn tâm]
MONG TỎ NGỘ HỒI TRÀO ỨNG KỊP [mong tỏ ngộ kịp ngày hồi trào]
HẸN KỲ BA MỞ HỘI LONG HOA [hẹn Kỳ Ba mở hội Hoa Long]
GIỮ NHÂN DUYÊN TU TẬP BAO NGÀY [giữ nhân duyên bao ngày tu tập]
GIỜ THẤY RÕ CƠ HUYỀN CHỈ ĐIỂM [giờ thấy rõ cơ huyền chỉ điểm]
HIỆP TỨ TRỤ LONG LÂN QUY PHỤNG [hiệp tứ trụ long, lân, quy, phụng]
NGŨ HÀNH THIÊN CHUYỂN ĐIỂN TAM TRÀO [Thiên điển Trào Tam chuyển Ngũ Hành]
CHẤN NGŨ ĐẦU HIỆP NGHĨA NGƯƠN LAI [Ngôi Hai Ngũ Đầu hiệp nghĩa ngươn lai]
NAY TÁI BÚT BẢNG GHI CƠ ĐẠO [nay tái bút ghi bảng cơ Đại Đạo]
THIÊN XUẤT HIỆN VẦNG DƯƠNG SÁNG MỚI [Minh Thiên xuất hiện, một vầng dương mới]
ĐỦ CĂN DUYÊN LÃNH NGỘ ÂN NÀY [đủ căn duyên lãnh ngộ ân này]
RÕ TỪNG NGÀY TU TẬP HUYỀN VI [rõ từng ngày tu tập huyền vi]
CƠ DIỆU PHÁP TƯỜNG MINH HẸN ƯỚC [rõ diệu pháp cơ minh ước hẹn]
KHÔNG TÍNH TRƯỚC LẬP THÂN CẦU ĐẠO [Đức Ngài không tính trước cầu đạo lập thân]
CHỮ HUYỀN VI CƠ ĐẠO MẦU TRÌ [cơ đạo nhiệm mầu hành trì nhờ hai chữ huyền vi]
GIỜ KHỞI HÀNH HIỆP NHỨT NAM THIÊN [đã đến giờ khởi hành hiệp nhứt Nam Thiên]
QUY TAM GIÁO ĐÁO LAI TRÙNG CỬU [về Ngôi Trùng Cửu quy ba giáo Phật Thánh Tiên]
(Trích dẫn sấm ký HOÀNG ĐẠO, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 19 tháng 11 Bính Thân tức 17/12/2016.)
CHUYỂN VỀ TAM GIÁO QUY TAM CÕI là nói Tam Giáo chuyển Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam về để quy ba cõi nhân thiên địa. CHẤN là sấm sét, ý nói oai thinh của Ông Trời, ám chỉ Ngôi Hai. CHẤN NGŨ ĐẦU là nói Ngôi Hai trên Ngũ Đầu Sơn, tức nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam tịnh tu trên đỉnh Thổ Đầu Sơn, là trái núi tọa vị trung ương trong quần thể Ngũ Đầu Sơn. SÁNG đồng gnhi4a với chữ Minh. THIÊN XUẤT HIỆN VẦNG DƯƠNG SÁNG MỚI hay SÁNG THIÊN XUẤT HIỆN VẦNG DƯƠNG MỚI là nói Minh Thiên xuất một mặt trời mới vừa xuất hiện. TAM GIÁO khi viết hoa là nói Hội Đồng Tam Giáo Tòa Tối Cao còn khi viết thường là nói ba dòng giáo Phật Thánh Tiên. [Chú giải của người soạn.]
"CHUYỂN THỂ TÁNH CHƠN LINH HIỆP HÒA [chuyển chơn linh hiệp hòa thể tánh]
KỲ KHAI HỘI THÁNH ĐÓN LONG HOA [đến kỳ khai Hội Thánh đón Long Hoa]
PHÁP TU ĐỊNH ƯỚC KHAI HUỲNH ĐẠO [ước định trước xong pháp tu là sẽ khai Huỳnh Đạo]
ĐẠI ĐẠO SINH LINH THIẾT ĐỊNH XA [nền Đại Đạo cứu vớt sinh linh đã thiết định từ lâu xa]
TỎA NGỘ THIÊN MÔN NHẬN ĐIỂN THÔNG [nhận điển thông được Thiên Môn nên tỏa ngộ]
QUAN MÔN THIẾT LẬP GIỮ CHƠN KHÔNG [quan môn thiết lập rồi phải giữ chơn không]
GIÁC LINH TÁNH THỂ KỲ BA CHUYỂN [Kỳ Ba chuyển tánh thể linh giác]
ĐÀN RÕ PHÁP MÔN HỘ ĐẠI ĐỒNG [đàn rõ pháp môn hộ đại đồng]
RỒNG TIÊN PHẬT CHIẾU HẠ ĐỒ THƠ [Phật Lạc Long đồ thơ hạ chiếu chỉ]
SANH CHÚNG HIỆN THỜI HIỆP TỨ THƠ [sanh chúng hiện thời đồ thơ hiệp ý]
THÍNH GIÁC THỦ THIÊN VỀ QUỐC VIỆT [thính giác thủ về Thiên Quốc Nam Việt]
CHÚC MỪNG CHƠN ĐẠO HƯNG HÀ SƠN [chúc mừng chơn đạo Hưng Hà Sơn Liên]
QUYỂN KỲ PHÁP TRUYỀN TAY TÂM ẤN [truyền tay quyển kỳ pháp ấn tâm]
PHẬT PHÁP TĂNG LIÊN ĐẠI ĐẠO KỲ [Liên Kỳ Đại Đạo Phật Pháp Tăng]
ĐỊA HÌNH RỒI GIA BẢO TẦM GHI [gia bảo ghi địa hình rồi tầm]
LỜI ĐƯỢC RÕ KINH THƯ LUẬT GIỚI" [sẽ rõ được lời kinh thư luật giới]
(Trích dẫn sấm ký CHUYỂN THẾ, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 25 tháng 11 Bính Thân tức 23/12/2016.)
THIÊN QUỐC hay THIÊN BÌNH TÂN QUỐC là ông Thiên tên Quốc, ám chỉ Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, cũng là nói ngắn thiên danh Thiên Bình Tân Quốc của Đức Ngài. HÀ HƯNG QUỐC là thế danh của Đức Ngài. SƠN HÀ hay SƠN LIÊN là đạo hiệu của Đức Ngài; vì chữ 荷 này phát âm là HẠ hay HÀ và có nghĩa là Hoa Sen, Hoa Liên cho nên chữ Sơn Hà đồng với chữ Sơn Liên. [Chú giải của người soạn.]
“ĐẠI CHÚNG CHƯ THẦN CHÀO NGỌC QUẾ [đại chúng chư thần chào Đấng Ngôi Hai]
TUẾ MINH VẠN CỬU ĐÁO TRÙNG LAI [vạn tuế Minh Thiên Cửu Trùng đáo lai]
HOA THIÊN CAN CHẤN CÀN CUNG KHẢM [Thiên Hoa Bắc Khảm Lôi Thiên Đại Tráng]
NGŨ ĐẠI LÔI PHÁT TƯỚNG ĐỊA BÌNH [Ngũ Lôi Thần Tướng phát bình địa đại]
PHÙ ĐỊNH CHIẾU THƯ MINH CHÚA VIẾT [chiếu thư viết rằng khuôn phò Chúa Minh]
TRÀO ĐÌNH XUẤT HIỆN ĐẤNG TOÀN NĂNG [Đấng Toàn Năng định Trào Tam xuất hiện]
CHO THẤY BIẾT QUÂN CƠ ĐỊNH THẦN [thần cho thấy biết quân cơ liệu định]
TRONG LÒNG CÓ ĐƯỢC ĐẠO THIÊN ÂN [để trong lòng có được đạo Thiên Tôn]
DI TÔN ĐẠI VIỆT HOÀNG NHỊ THÁNH [ân di Đại Việt đức Hoàng Nhị Thánh]
TAM THÁNH VÔ VI LÃO PHẬT TÔN... [Trào Tam Vô Vi Lão Thánh Phật Tôn]
QUÂN CHỈ BẢO ĐỊNH MINH CHI ĐẠI [BẢO chỉ định là Minh Quân chi đại]
HIỆP CỬU TRÙNG SẮC TƯỚNG TỊNH KHÔNG [hiệp Cửu Trùng sắc tướng tịnh không]
NGUYỆT CUNG ĐẠI HIỆP TAM QUAN [hiệp tam đại quan Nguyệt Cung]
TẦNG KHÔNG VŨ TRỤ CUNG CÀN CHIẾU RA [Cung Trời chiếu ra tầng khung vũ trụ]
SÁNG TRONG BẠCH THỦY TA BÀ [sáng trong bạch thủy. Ta Bà thông thiên giáo chủ]
THÔNG THIÊN GIÁO CHỦ SƠN HÀ NƯỚC NAM...[Đức Ngài Sơn Liên của nước Nam]
TÂY NGUYÊN RỘNG LỚN TRÀO TAM [Tây Nguyên rộng lớn xuất Trào Tam chuẩn làm]
NIẾT BÀN BA CÕI CHUẨN LÀM THEO CƠ.” [ba cõi theo cơ thiết lập Niết Bàn tại thế]
(Trích dẫn sấm ký HUYỀN DIỆU CƠ PHÁP, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 6 tháng 12 Bính Thân tức 03/1/2017.)
CHẤN CÀN là nói quẻ Thiên Lôi Đại Tráng, nội quái Càn ngoại quái Cấn, ý nghĩa là "Chí dã. Tự cường. Ý chí riêng, bụng nghĩ, hướng thượng, ý định, vượng sức, thịnh đại, trên cao, chót vót, lên trên, chí khí, có lập trường. Phượng tập đăng sơn chi tượng: tượng phượng đậu trên núi. Hết thời lui rồi thì tới thời tiến lên, tiến lên thì lớn mạnh, cho nên sau quẻ Độn tới quẻ đại tráng (lớn mạnh)." CUNG KHẢM là nói Bắc Khảm Thủy, ám chỉ Huyền Thiên Thượng Đế. NGŨ LÔI TƯỚNG là nói năm vị Ngũ Lôi Thần Tướng của Huyền Đô Cung. HOÀNG NHỊ THÁNH là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên/Hoàng Nhị Thiên Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
HÀ SƠN tức SƠN LIÊN là đạo hiệu của Đức Ngài; Vì chữ 荷 này phát âm là HẠ hay HÀ và có nghĩa là Sen, Liên. TÂY NGUYÊN RỘNG LỚN TRÀO TAM là nói Trào Tam xuất thế tại vùng Tây Nguyên rộng lớn. TA BÀ THÔNG THIÊN GIÁO CHỦ là nói vị Giáo Chủ tại cõi Ta Bà này (ám chỉ Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam) có khả năng thông thiên thông địa, tức nói có khả năng thông linh với các cõi khác. [Chú giải của người soạn.]
"LONG HOA HỘI NHỊ THIÊN KHAI ĐẠO [Hoàng Di Thiên khai đạo hội Hoa Long]
THIÊN NIÊN KỶ CHÍN RỒNG HOA GẤM [thiên kỷ hai ngàn gấm hoa chín rồng]
DỊCH CHÂN KINH LỘ QUỐC NAM THIÊN [Quốc trời Nam dịch chân kinh hiển lộ]
TRƯỜNG VÔ VI CÔNG LỰC THẦN KỲ [Trường Thiên Vô Vi thần kỳ lực công]
HOÀN ĐƠN GIÁC LƯU LY HÒA THỂ. [hoàn đơn giác thể hòa ánh lưu ly]
THÂU GỒM BỐN CHẤN ĐẠI CÀN KHÔN [Đức Ngài gồm thâu bốn đại, Càn Khôn]
HỎA LỰC LƯU CHÂU ĐẤNG MẪU TÔN [chuyển lưu từng vòng hỏa lực Mẫu Tôn,]
NGHIÊU THUẤN ĐỊA KHAI MIỀN HẠ GIỚI [an nhiên tự tại khai đơn điền hạ,]
TRÙNG CUNG ĐỈNH THỂ ĐẠI TỪ TÔN... [Trùng Cung đỉnh thể ngự Đại Từ Tôn]
CHIẾU VIẾT HỒI TRÀO LAI NGOẠI QUỐC [chiếu thư viết: về triều nội, rồi ra ngoại quốc]
HẦU VƯƠNG DI LẠC VÒNG HOA MỸ [để Di Lạc Vương đi một vòng Kỳ Hoa nước Mỹ]
TRIỀU ĐẠI TAM NGƯƠN QUYẾT ĐỊNH RỒI...[Trào Tam Xuất Thế đã quyết định rồi]
ĐẠI ĐẠO KỲ THIÊN BÚT CÒN GHI [Thiên Bút còn ghi kỳ Đại Đạo]
ĐẠI LÔI ÂM HẢI HỘI LIÊN TRÀO [Đại Lôi Âm hải hội liên trào]
SÔNG CỬU KHÚC ĐỒ THIÊN ĐÃ ĐỊNH [khúc Bảo Giang Môn thiên đồ định]
CỨU NHÂN LOẠI THOÁT VÒNG SANH TỬ [cứu nhân loại thoát vòng tử sinh]
ĐIỂN THÔNG THIÊN ĐIỂN HỘI TAM GIA [điển thông thiên điển hội tam gia]
THẾ CHÍ TÔN ĐẠI LỰC THIÊN TRIỀU [thế chí tôn đại lực Thiên Tòa]
RA LỊNH MỚI THIÊN THẦN GIÚP LỰC. [Ngôi Hai ra lịnh thì Thiên Thần mới giúp sức]
NÀY HUYNH TRƯỞNG LO TOAN ĐÚNG LÚC [Ngô huynh trưởng lo toan đúng lúc]
CỬA TRÀO TAM VỪA MỞ HÔM QUA [hôm qua vừa mở cửa Trào Tam]
THEO CHÍ TÔN ĐỨC CẢ CAO ĐÀI [căn cứ theo Chí Tôn Cao Đài]
NGÔ CHẤN QUỐC LÀ TRỜI THƯỢNG ĐẾ [Ngô Chấn Quốc đều là Ngôi Hai]
NAY CHO BIẾT CƠ TRỜI HÉ LỘ [nay cơ trời hé lộ cho hay]
THẬP TAM NGƯƠN VỪA ĐỢI VỪA TRÔNG [ngươn đợi trông Thập Tự Trào Tam]
ĐIỂN ĐẠI LÔI CHO BIẾT CỬU TRÙNG [điển Cửu Trùng cho biết Đại Lôi]
NỀN ĐẠI ĐẠO KỲ BA ĐÃ MỞ. [nền Đại Đạo Kỳ Ba đã mở]
LẬP HỘI MỚI, NGÀI KHAI ĐẠI ĐẠO [lập hội mới Ngôi Hai khai Đại Đạo]
ĐÚNG MÙNG HAI THÁNG TÁM CƠ TRỜI [ngày mùng 2 tháng 8 đúng cơ trời]
PHẢI CHAY TRƯỜNG TỊNH GIỚI NGHIÊM MINH [phải trường chay tịnh giới nghiêm minh]
THEO LUẬT ĐỊNH TÒA ĐÌNH XUẤT THẾ." [theo luật định Tòa Đình xuất thế]
(Trích dẫn sấm ký CHƠN KINH NGỌC ĐẾ MA HA, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tu tịnh trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 1 tháng 1 năm Đinh Dậu tức 28/1/2017.)
NHỊ THIÊN đồng nghĩa với Ngôi Hai. BỐN ĐẠI là nói đất, nước, gió, lửa. HỎA LỰC LƯU CHÂU là nói dẫn hỏa lực thành vòng khép kín, gọi là chuyển luân xa hay chuyển càn khôn hoặc chuyển pháp luân, là ngôn ngữ luyện đạo. KHAI ĐỊA MIỀN HẠ GIỚI là nói khai mở vùng hạ đơn điền. ĐỈNH CỬU TRÙNG là nói đỉnh đầu, nói Linh Sơn Tháp, nói Cốc Thần, nói chỗ Thượng Đế Ngự. [Chú giải của người soạn.]
LAI là đến nơi. HỒI TRÀO là về triều, trở lại triều. HỒI TRÀO LAI NGOẠI QUỐC là nói về Trào Nội (về Toà Đình Quốc Nội) lo cho xong việc rồi trở ra ngoại quốc. HẦU là để, bèn. HOA MỸ là nói Hoa Kỳ nước Mỹ. TRIỀU ĐẠI TAM NGƯƠN QUYẾT ĐỊNH RỒI hay TRIỀU TAM ĐẠI NGƯƠN QUYẾT ĐỊNH RỒI là nói Trào Tam (triều tam) đại kỷ nguyên (đại ngươn) đã định phải xuất thế (quyết định rồi). [Chú giải của người soạn.]
HẢI HỘI LIÊN TRÀO là nói Phật Thánh Tiên Liên Kỳ Hải Hội, có sự tham dự của Đại Lôi Âm (bên Phật Tổ A Di Đà). THIÊN BÚT là nói "quyền năng hay chức trách" ra bài, ra sấm, ra cơ... của một đấng trên Thiên Thượng mà nhân thân của ngài lúc còn dưới thế chúng ta quen thuộc với tước vị Trình Quốc Công tức ông Trạng Trình. SÔNG CỬU KHÚC ĐỒ THIÊN ĐÃ ĐỊNH hay KHÚC SÔNG CỬU ĐỒ THIÊN ĐÃ ĐỊNH là nói Bảo Giang Môn thiên cơ đã định. "Khúc sông Cửu" sẽ được giải thích rõ hơn trong mục 8.0 Sấm Ký Bảo Giang Môn. TAM GIA là nói ba nhà Phật Thánh Tiên. [Chú giải của người soạn.]
NGÔ CHẤN QUỐC LÀ TRỜI THƯỢNG ĐẾ là nói Đức Ngài Ngô Văn Chiêu, đạo hiệu Ngô Minh Chiêu, Cao Đài Giáo Chủ và ông Hà Hưng Quốc đều là chiết linh quang của Cha Thượng Đế xuống phàm cả hai đều là Ngôi Hai. CHẤN là nói oai thinh của Trời. CỬU TRÙNG CHO BIẾT ĐIỂN ĐẠI LÔI ĐÃ MỞ NỀN ĐẠI ĐẠO KỲ BA là nói điển Cửu Trùng Thiên cho biết là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, điển Đại Lôi Chấn, đã mở nền Đại Đạo Kỳ Ba. [Chú giải của người soạn.]
LẬP HỘI MỚI là nói lập Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên. NGÀI KHAI ĐẠI ĐẠO ĐÚNG MÙNG HAI THÁNG TÁM CƠ TRỜI là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên khai Đại Đạo Huyền Không, là Cao Đài Vô Vi Kỳ Ba khai đạo vào đúng ngày mùng 2 tháng 8 năm Đinh Dậu (21/9/2017). Tòa Đình Hải Ngoại xuất thế kể từ ngày hôm nay. [Chú giải của người soạn.]
"LỜI ĐẮC PHÁP TÒA ĐÌNH HIỆN ĐẾN [lời đắc pháp Tòa Đình hiện thế]
CHUYỂN CÀN KHÔN MƯỜI TÁM NƯỚC VỀ [chuyển Càn Khôn 18 nước về]
VÒNG TRÒN CHÂU LỤC HỘI TỀ [khắp thế giới vòng tròn châu lục hội tề]
QUẦN SINH ĐỈNH MỘC ƯỚC THỀ THIÊN CAN. [với quần sinh Nhân Thập đã có ước thề]
TRÒN SỨ MẠNG ĐÌNH NANG CHẤN QUỐC [Ngôi Hai Chấn Quốc tròn sứ mạng]
CHIẾU ĐỒ THƠ ĐÚNG LÚC ĐÚNG NĂM [chiếu đồ thơ cẩm nang thiên đình]
TRĂNG RẰM TRĂNG SẮC NHẬT THIÊN [đúng năm sáng sắc Minh Thiên]
ĐỒ HÌNH CHUYỂN BIẾN VẠN NIÊN THIÊN ĐÀI. [đồ hình chuyển biến vạn niên thiên đài]
ĐẠI TỪ ÔNG CHUYỂN KIẾP HÓA SINH [từ cung đình Đại Từ Ông chuyển kiếp hóa sinh]
THÀNH TÂM CHUYỂN BIẾN CUNG ĐÌNH [thành thực hiện sứ mạng vô hình chuyển giao]
HOÀNG THÀNH SỨ MẠNG VÔ HÌNH CHUYỂN GIAO." [HoàngDiThiên hoànthành chuyểnbiến]
(Trích dẫn sấm ký NGỘ TRÍ LỰC, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 13 tháng 1 năm Đinh Dậu tức 09/2/2017.)
18 là con số đại diện cho số đông. 18 NƯỚC VỀ là nói khắp thế giới quy tụ về. MỘC chiết tự là chữ THẬP trên NHÂN dưới (mượn chữ Bát nói chữ Nhân vì Bát và Nhân đồng dạng). Nói chữ MỘC cũng là nói THẦY NHÂN THẬP, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. THIÊN CAN MỘC là nói tuổi Giáp và Ất. Khải lộ này rất chính xác. Đức Ngài sinh năm thiên can Giáp Mộc. QUẦN SINH ĐỈNH MỘC ƯỚC THỀ THIÊN CAN là nói Thầy Nhân Thập của Phương Tây đã từng có ước thề với quần sinh là hai ngàn năm sau sẽ trở về, vào thời kỳ Đại Phán Xét. HOÀNG là Hoàng Di Thiên. THÀNH là hoàn thành, là làm xong sứ mạng. CHẤN là sấm sét, ám chỉ Oai Thinh của Trời. CHẤN QUỐC là nói Ngôi Hai tên Quốc. TRĂNG NHẬT cũng là Nhựt Nguyệt, hiệp tự thành chữ MINH. TRĂNG NHẬT THIÊN là nói Minh Thiên, hiệu của Đức Ngài Huyền Thiên dưới thế. TRĂNG RẰM TRĂNG SẮC NHẬT THIÊN hay SẮC TRĂNG RẰM TRĂNG NHẬT THIÊN là nói Minh Thiên tỏa sáng như ánh sắc trăng rằm. [Chú giải của người soạn.]
HOÀNG THÀNH là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam phải thành toàn sứ mạng mà vô hình đã chuyển giao vào tay Đức Ngài. Hai chữ "Hoàng Thành" còn khơi gợi cho nhân sinh nhớ đến câu nói sau cùng của Đức Chúa Giêsus trên thập tự giá. "Chúa Giêsus nói: 'Mọi sự đã hoàn tất!' Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng." (Trích dẫn Ga 19:30). Câu này không đơn thuần nói về sự kết thúc một công việc hay chấm dứt một cuộc đời mà là nói đến sự hoàn thành sứ mạng, mục đích, và tình yêu của Ngài trên trần gian. Câu nói thể hiện sự viên mãn trọn vẹn trong việc thực hiện ý muốn của Đức Chúa Cha. Chúa Giêsus chính là HOÀNG và sự viên mãn trong việc thực hiện ý muốn của Chúa Cha chính là THÀNH. Ngôi Hai Trào Tam cũng chính là HOÀNG, Hoàng Di Thiên, và thực hiện xong sứ mạng vô hình chuyển giao chính là THÀNH. [Chú giải của người soạn.]
"RỒI MỘT THỂ CHẤN HÀ HƯNG QUỐC [rồi nhân thân Ngôi Hai Hà Hưng Quốc]
RÕ ĐƯỜNG ĐI GẶP MẶT NHỊ HIỀN...[gặp mặt hai hiền đã rõ đường đi]
LỜI BẠCH NGỌC TÒA CHƯƠNG HIỆN HỮU [lời Bạch Ngọc khải: Toà Chương sẽ hiện]
CHUYỂN THỂ HÌNH ĐẶNG VIỆC GẦN XA [chuyển nhân thân đặng lo việc gần xa]
LẬP NÊN CƠ PHÁP ĐẠO NHÀ [lập nên cơ pháp đạo nhà]
TRUYỀN TRAO TÂM ẤN PHẬT ĐÀ VÔ VI.” [truyền trao tâm ấn Phật Đà Vô Vi]
(Trích dẫn sấm ký HÀNH TRÌNH XUYÊN CÀN KHÔN, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 13 tháng 1 năm Đinh Dậu tức 09/2/2017.)
THỂ là nói thân thể, là nói nhân thân. CHẤN là sấm sét, ám chỉ Oai Thinh của Trời. CHẤN HÀ HƯNG QUỐC là nói Ngôi Hai tên Hà Hưng Quốc. RỒI MỘT THỂ CHẤN HÀ HƯNG QUỐC là nói rồi nhân thân của ông Ngôi Hai tên Hà Hưng Quốc.
“LỜI CƠ ĐẠO THIÊN HÀ HIỆU LỰC [cơ đạo lời hiệu lực: Thiên Hà]
ẤN CHỨNG THIÊN TRUYỀN PHÁP THIÊN SƠN...[truyền Pháp Thiên Sơn Trời ấn chứng]
ĐẠO MỚI HUỲNH KHAI THIÊN BỬU TÒA [Bửu Tòa Thiên Khai Huỳnh Đạo mới]
HUYỀN KHÔNG ẤN ĐỊNH CHIẾU HƯNG HÀ [chiếu chỉ Huyền Không ấn định Quốc Hưng Hà]
QUỐC KHAI THIÊN ẤN NGÔI HUỲNH ĐẾ [vị ngôi Huỳnh Đế khai Thiên Ấn]
GIÚP MỞ TÂM LÀNH GIÚP QUỐC GIA." [giúp mở tâm lành giúp quốc gia.]
(Trích dẫn sấm ký VẬN CHUYỂN HUYỀN CƠ, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 17 tháng 1 năm Đinh Dậu tức 13/2/2017.)
THIÊN HÀ là nói ông THIÊN họ HÀ. TRUYỀN PHÁP THIÊN SƠN là truyền bí pháp vô vi mà Đức Ngài Hoàng Di Thiên đã nhận lãnh lúc tịnh tu trên núi Thổ Đầu Sơn cùng với giáo pháp Phật Đà mà Đức Ngài đã thành tựu trong các đời quá khứ. ĐẠO MỚI HUỲNH KHAI THIÊN BỬU TÒA hay BỬU TÒA THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO MỚI là nói Bửu Tòa của Thiên Khai Huỳnh Đại mới khai mở, tức là nói Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba khai mở đầu thượng ngươn. KHAI THIÊN ẤN NGÔI HUỲNH ĐẾ là nói khai quyền lệnh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. [Chú giải của người soạn.]
"TAM THANH THÁNH ĐẾ CHUYỂN BÀI [Tam Thanh Thánh Đế cơ bút chuyển bài]
HUỲNH KHAI ĐẠI ĐẠO HỘI THIÊN BAY [Thiên Khai Huỳnh Đạo đại hội rồng bay]
ẤN CHỨNG TAM KỲ KHAI BỬU ẤN [ấn chứng Kỳ Ba khai Bửu Ấn]
HỒNG BÀNG ĐẤT VIỆT LẬP LONG HOA. [Hồng Bàng Đất Việt lập Long Hoa]
TAM CÕI VÔ VI ĐÃ LUẬN ĐÀM [ba cõi thiên địa nhân Vô Vi đã luận đàm]
THANH QUANG HỒNG ĐIỂN CHIẾU KỲ TAM [điển quang xanh đỏ chiếu Kỳ Tam]
THÁNH MINH XUẤT NGẠCH THIÊN TRIỀU LỚN [Thánh Minh xuất thế Thiên Triều lớn]
ĐẾ CHUYỂN BÀI TAM ẤN ĐẠI TAM. [Thánh Đế chuyển bài đến Tam Ấn Thiên Đại Trào Tam]
HUỲNH HỒNG SẮC MỤC CHỈ CẦM TAY [mắt thấy Huỳnh Hồng sắc chỉ cầm tay]
KHAI ẤN HUỲNH LONG RÕ ĐỨC TÀI [Huỳnh Long khai ấn tỏ rõ đức tài]
ĐẠI ĐẠO HỘI VỀ THIÊN BỬU ẤN [Đại Đạo hội về Thiên Bửu Ấn]
THIÊN ĐÀI BAY LƯỢN CHUYỆN RỒNG MÂY [rồng bay mây lượn chuyện Thiên Đài ]
ẤN CHỈ THIÊN BAN KIM ẤN BÀI [Trời ban ấn chỉ nay xuống bài]
CHỨNG MINH VÔ LƯỢNG CHUYỆN ĐÔNG LAI [chứng minh chuyện Vô Lượng phương tây]
TAM KỲ CHUYỂN ĐỘNG VÙNG THIÊN MỚI [Kỳ Ba chuyển động vùng trời mới]
KHAI BỬU ẤN THIÊN BÁT CỬU BÀI [Bát Cửu Thiên khai bửu ấn bài]
HỒNG QUÂN LÃO TỔ ĐÁO TƯỜNG MINH [Lão Tổ Hồng Quân đến dạy rành]
BÀNG ĐIỆP RÕ THIÊN ẤN CHỨNG MINH [thơ đồ rõ chứng minh Thiên Ấn]
ĐẤT VIỆT CHUYỂN MÌNH VỀ VŨ TRỤ [trời đất chuyển mình về Việt cảnh]
LẬP LONG HOA HỘI CỨU QUẦN SINH." [lập Long Hoa Hội cứu quần sanh]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN ĐẠO VÔ VI, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, ngày 6 tháng 3 năm Đinh Dậu tức 3/4/2017.)
HUỲNH là Huỳnh Long, nói Đức Ngài. HỒNG là Hồng Liên, tức Nhị Nương Diêu Trì Cung cũng là Tây Thiên Vương Mẫu, nói kim thân của bà dưới thế. ĐẠI ĐẠO HỘI VỀ THIÊN BỬU ẤN là nói nền Đại Đạo mà các Thiên Long (nam) và Thiên Hoa (nữ) tụ tập chung quanh Thiên Bửu Ấn. THIÊN BỬU ẤN là nói Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam. ĐẾ CHUYỂN BÀI TAM ẤN ĐẠI TAM là nói Ngài Thánh Đế chuyển bài này trao đến tay Tam Ấn Thiên Đại Trào Tam, tức trao đến tay Đức Ngài Hoàng Di Thiên, ông Thiên lớn Trào Tam có Tam Ấn ủy quyền. ĐÔNG LAI là lấy từ câu "tử khí Đông lai" tức khí lành từ Phương Đông đến, mà từ Phương Đông đến tức là nói Phương Tây. Do đó CHUYỆN ĐÔNG LAI là nói chuyện bên Phương Tây. VÙNG THIÊN MỚI là nói vùng trời bên Phương Tây. TAM KỲ CHUYỂN ĐỘNG VÙNG THIÊN MỚI là nói chuyện khai mở Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi nơi vùng trời mới ở Phương Tây, chính xác hơn là tại California của Hoa Kỳ, trong Kỳ Ba. VÔ LƯỢNG là nói vô lượng từ. THIÊN BÁT CỬU là nói Bát Quái Cửu Trùng Thiên. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN ĐẾ VỪA BAN ẤN CHỈ BÀI [Thượng Đế vừa ấn chỉ ban bài]
LONG TUYỀN MẠCH ĐẤT VẬN THỜI LAI [vận đất Việt thời Long Lạc lai]
GIANG ĐẦU THIÊN ĐẢNH THỜI CHIÊU LẠC [Thiên Hà quốc tổ thời Hùng Lạc]
ĐIỂM ĐẶT LONG CHÂU ỨNG CHỦ KHAI [chọn đất Long Châu hóa ứng khai]
XUỐNG KHÚC LONG CHÂU THỜI MINH NGUYỆT [xuống đêm trăng sáng khúc Long Châu]
HẠ PHÀM GIANG LẬT NGƯỢC HÀ SONG [Hà giáng sông Tiên cạnh chợ Hà]
THIÊN MÔN CHIẾU LỊNH THIÊN TÙNG KHẢI [Thiên Môn chiếu lệnh Thiên Tùng nói]
ĐẶT ĐỊNH THIÊN HOÀNG ĐẶT ĐỊNH KHAI." [Thiên Hoàng đặt định Thiên Hoàng khai]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN LONG GIANG ĐIỂM, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 29 tháng 4 năm Đinh Dậu tức 24/5/2017.)
XUỐNG KHÚC LONG CHÂU là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên xuống thế tại đất vùng Long Châu Hà; là một địa danh ngày trước. Ba tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên gom thành một tỉnh Long Châu Hà. THỜI MINH NGUYỆT là nói vào thời gian một đêm trăng sáng. HẠ PHÀM HÀ GIANG là nói hạ phàm và sinh ra cạnh con sông Hà Tiên. LẬT NGƯỢC HÀ SONG là nói lật ngược chữ HÀ SONG thành chữ SONG HÀ tức hai chữ Hà, ám chỉ sông Hà Tiên và chợ Hà Tiên. HẠ, HÀ là nói danh tánh của nhân thân sau khi Thiên Hoàng xuống thế phàm. THIÊN GIANG đồng với chữ THIÊN HÀ là nói ông Thiên họ Hà. THIÊN TÙNG là đạo hiệu của Sư Vãi, còn THIÊN TÙNG ĐẠO NHƠN là đạo hiệu của Chúa Nguyễn Phúc Chu. ĐẶT ĐỊNH THIÊN HOÀNG ĐẶT ĐỊNH KHAI là nói khúc Long Châu Hà, cạnh bờ sông Hà Tiên chợ Hà Tiên (vị trí Bảo Giang Môn), là nơi Thiên Hoàng đã chọn để hạ phàm (tái sanh) và để mở cửa Nam Bang Phật Quốc, giống như bà Trúc Lâm Nương đã từng huyền khải "là nơi Thánh Chúa Thiên Tôn định phần". XUỐNG KHÚC LONG CHÂU THỜI MINH NGUYỆT, HẠ PHÀM GIANG LẬT NGƯỢC HÀ SONG... ĐẶT ĐỊNH THIÊN HOÀNG ĐẶT ĐỊNH KHAI là nói Thiên Hoàng xuống thế vào một đêm trăng sáng, sinh ra cạnh con sông Tiên đất Hà, nơi đã được Thiên Hoàng đặt định trước, và nhân thân của Ngôi Hai có danh tánh là Hạ/Hà. Những chi tiết này đều ứng hợp chính xác với nhân thân của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. Đức Ngài sinh ra tại một căn nhà nằm cạnh bờ sông Hà Tiên gần chợ Hà Tiên thuộc xã Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên vào một đêm một trăng sáng. [Chú giải của người soạn.]
"MƯỜI HAI CỬA ĐẠO DỰNG TAM NGÔI [dựng 3 ngôi 12 cửa đạo]
THẾ GIỚI ĐỒNG LIÊU THƯỢNG GIỚI NGỒI [thế giới đồng liêu thượng giới ngồi]
NHẤT CỬU ĐỒNG HUỲNH KIM KHẾ HỘI [Cửu Huỳnh cùng Nhất Kim khế hội]
LỜI TRUYỀN THÁNH ĐỨC VẠN THỜI TÔI [Thánh Đức Vạn Thời. Tôi truyền lời.]
KHAI KIM KHẾ HỢP THỜI CƠ KHAI [khai Kim khế hợp thì khai cơ]
ĐẶT ĐỊNH THẾ TÔN HIỆU TRIỆU NGÀI [Thế Tôn đặt định hiệu triệu ngài Nhất Kim]
LIÊN ĐỈNH HỒNG HUỲNH KHAI KHẾ HỘI [liên đỉnh Hồng Huỳnh khế hiệp mới khai hội]
LỊCH TRÌNH CHIẾU ĐỊNH ẤN NHƯ LAI [Như Lai ấn định lịch trình tất cả chiếu theo làm]
HẠ NHẤT HÀ ĐĂNG HẠ NHẤT THÂM [HẠ HÀ đăng sơn rồi hạ sơn, lòng không đổi]
LẠP MỪNG LẠP NHẬT LẠP THIÊN TÂM [Mừng Minh Thiên tâm!]
CHỈ HUY TÂN CHỦ KHAI THIÊN BÚT [Tân Chủ chỉ huy khai Thiên Bút]
ẤN SẮC THIÊN CĂN ẤN SẮC TÂM." [Thiên Ấn sắc lịnh căn ấn sắc tâm]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN LONG GIANG ĐIỂM, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 29 tháng 4 năm Đinh Dậu tức 24/5/2017.)
CỬU HUỲNH là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên. NHỨT KIM là thiên danh của một vị dưới thế. KHẾ HỘI là nói gặp nhau và hợp tác. KIM CƠ là nói cô Kim. NHẤT CỬU ĐỒNG HUỲNH KIM KHẾ HỘI hay NHẤT KIM CỬU HUỲNH ĐỒNG KHẾ HỘI là một huyền khải trong tương lai gần Đức Ngài sẽ gặp một người thiên danh Nhứt Kim để cùng nhau bắt tay gầy dựng cơ đạo. Điều này đã ứng nghiệm và trở thành hiện thực. THÂM là nói thành thật, lòng dạ không thay đổi. HẠ HÀ là nói chữ 荷 này, phát âm là HẠ hay HÀ và có nghĩa là Hoa Sen, Hoa Liên; họ của Đức Ngài. HẠ NHẤT HÀ ĐĂNG HẠ NHẤT THÂM hay HẠ HÀ ĐĂNG HẠ NHỨT NHỨT THÂM là nói ông HÀ đăng sơn rồi hạ sơn lòng không thay đổi (nhứt nhứt thâm). THIÊN BÚT là nói quyền và chức trách ra sấm thi, ra cơ của Trạng Trình, là khối linh điển ẩn trong nhân thân Thầy Phương Vũ. THIÊN ẤN là nói nắm quyền điều động chư vị vô hình và hữu hình (đóng dấu ban sắc lệnh) của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, ngôi trung ương Huỳnh Long Đế, để chư vị vô hình và hữu hình theo sắc lệnh mà thực hiện. Nói vắn tắc cho dễ nhớ dễ hiểu: Đức Ngài Trạng Trình là Thiên Bút còn Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam là Thiên Ấn. THẾ TÔN NHƯ LAI là nói Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. [Chú giải của người soạn.]
"MÂY THIÊN ĐỈNH HỘI MÂY CHIẾU VANG [đỉnh thiên mây hội mây chiếu quang]
LONG ĐẾ HỒI QUY HIỆN ĐIỆN VÀNG [vang lừng Long Đế hồi quy hiện điện vàng]
HẠC ĐẬU CÀNH HỒNG HẠC HỌA KHÚC [hạc đậu cành hồng hạc họa khúc, Liên Hoa Tôn]
LIÊN TÔN HUỲNH ĐẾ LIÊN TÔN HOÀNG [Huỳnh Đế, Liên Hoa Tôn Di Thiên Hoàng]
NHẤT BỬU BÁU THÂU NHẤT BỬU CHÂU [Nhất Bửu thâu một vùng Bảo Châu]
HOÀNG THIÊN ĐÁO CỰU HIỆN THIÊN CẦU [Hoàng Thiên xưa đáo hiện thiên cầu]
CHÚA MINH CHÚA THÁNH TAM BÌNH ĐẾ [Minh Chúa Thánh Chúa Đế TràoTam]
LONG TRƯỢNG NHẤT MIỀN THIẾT MINH CHÂU [Long Trượng nhất miền thiết Minh Châu]
THIÊN KHAI ĐỊA ĐẠI THIÊN KHAI TÂM [Trời khai đại địa Trời khai tâm]
MINH GIÁM MỤC TẦM MINH ẤN TÂM [Minh Giám Mục tìm Minh Thiên ấn tâm]
NGUYỆT NHẬT HÀNH THÔNG THẬP BÁT NHẤT [tháng ngày thông hành 18 nước]
HOÀNG TRIỀU ĐỊNH VIỆC THIÊN TRIỀU TÂM. [nhứt tâm triều thiên định việc Hoàng Triều]
[Khóan thủ: Thiên Minh Minh Hoàng (Nhựt+Nguyệt=Minh)]
CHUYỂN VỀ KHAI ẤN TÂM TRẦN [chuyển về khai tâm ấn ông Trần]
VÙNG MIỀN SÔNG CỬU CHÍN TẦNG PHẬT TIÊN [vùng miền Sông Cửu 9 tầng Phật Tiên]
THÁNH CHÚNG NGÔI BÁU HIỆN TIỀN [Thánh Chúng ngôi báu hiện tiền, Thiên Hoàng]
TRẦN GIAN CHI ĐẠI KHẢI THIÊN THƯỢNG HOÀNG. [Thượng Đế là chí tôn, thưa thế trần]
LONG CHÂU GIANG ĐIỂM THIÊN BANG [Long Châu Hà điểm xứ thiên bang, Ngọc Hoàng]
NGỌC HOÀNG CHIẾU LỆNH HỒNG BÀNG DỰNG NGÔI [chiếu lịnh Hồng Bàng dựng ngôi]
TAM BÁU BỬU PHÁP TỌA NGỒI [ba báu bửu pháp tọa ngồi]
HỒNG QUÂN LÃO TỔ VUA TÔI CHIÊU HÙNG… [HồngQuân LãoTổ vua tôi Chiêu Hùng]
TRÙNG CỬU DỰNG SẴN HUYỀN KHUNG [Huyền Khung dựng sẵn Cửu Trùng, 18 long châu]
LONG CHÂU THẬP BÁT CỬU TRÙNG CHUYỂN XOAY [Cửu Trùng xoay chuyển, định 18 long]
LONG KHÁNH HỘI LONG THIÊN NHẬT NGUYỆT... [về khánh hội với Huỳnh Long Minh Thiên]
LỜI NHẤT ĐẠI THIÊN CĂN ĐẠI CÁN [lời Ngọc Đế nhất đại thiên căn]
HOA CHI LIÊN ĐẠI VỊ CHÂU ĐIỀN [Hoa Liên ngôi lớn châu điền]
HIỀN THẦN THÁNH ĐỨC BỬU LIÊN [hiền thần thánh đức bửu liên]
LIÊN TÔNG HUỲNH ĐẠI HOA LIÊN SƠN KỲ." [Huỳnh tông sen lớn là Sơn Liên Hoa Kỳ]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN LONG GIANG ĐIỂM, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, vào ngày 29 tháng 4 năm Đinh Dậu tức 24/5/2017.)
HẠC là nói Tiên Ông, nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. HỒNG là nói ngài Hồng Liên Tây Thiên Mẫu, nói hóa thân dưới thế là ngài Thiên Nhứt Kim. HẠC ĐẬU CÀNH HỒNG là nói ngài Thiên Nhứt Kim (cành hồng) tạo cơ sở vật chất giúp Đức Ngài Ngôi Hai có điều kiện để lưu lại (đậu) hoằng giáo (họa khúc). [Chú giải của người soạn.]
NHẤT BỬU BÁU THÂU NHẤT BỬU CHÂU là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam mời Ngài Thiên Nhứt Kim thuộc Bửu Sơn Kỳ Hương hải ngoại về hợp tác (thâu) gầy dựng Đại Đạo Huyền Không. HOÀNG THIÊN ĐÁO CỰU HIỆN THIÊN CẦU hay CỰU HOÀNG THIÊN ĐÁO HIỆN THIÊN CẦU là nói Ngôi Hai Thánh Chúa khi xưa trở lại hiện thân trên địa cầu ngày nay. CHÚA MINH CHÚA THÁNH TAM BÌNH ĐẾ là nói Minh Chúa tức Chúa Thánh Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
THẬP BÁT NHỨT TÂM TRIỀU THIÊN ĐỊNH VIỆC HOÀNG TRIỀU là nói 18 nước (thập bát quốc) một lòng quy Đại Đạo (triều thiên) định việc Trào Tam (Hoàng Triều). NHẬT NGUYỆT hiệp nhau thành chữ MINH. Đứng riêng rẽ thì Nhựt là nói ngày còn Nguyệt là nói tháng. [Chú giải của người soạn.]
LIÊN HOA hay HOA LIÊN là nói chữ 荷 này, phát âm HÀ hoặc HẠ nghĩa là Cây Sen tức Hoa Liên, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. SƠN LIÊN hay SƠN HÀ là đạo hiệu của Đức Ngài, vì chữ LIÊN đồng với chữ HÀ. [Chú giải của người soạn.]
"HỒI CHUÔNG LỚN THƯỢNG CỜ THƠ THỚI [hồi chuông lớn phướn kéo lên bay thơ thới]
ẤN THƯỢNG HOÀNG TÂM PHÁT ĐỒ THIÊN [Thượng Hoàng ấn tâm mở rộng Hoàng Đồ]
LỤC THẬP TAM CHỈ NHẤT ĐẠI ĐIỀN [điểm chỉ 36 Ông Thiên hàng Thượng Thánh, sắc chỉ]
CĂN NGUYÊN ĐỊNH SẮC HOÀNG THIÊN CHI THẤT [Hoàng Thiên định đặt nguyên căn 7 chi]
LỜI TỰA MỘC THIÊN LONG GIANG ĐIỂM [lời tựa Nhân Thập Thiên Long Hà điểm]
ẤN SẮC TRẦN PHONG ĐỊNH ĐỒ THƠ [sắc ấn phong ông Trần và đặt định đồ thơ]
BẠCH PHONG VÂN ẤN CHỈ ĐẠI CẦU [phong Trạng Trình đại cầu ấn chỉ]
NGÀI TRỢ LỰC HIỆP BÀN TÁM ĐẠO." [hiệp bàn Đạo Tám trợ lực Đức Ngài]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN LONG GIANG ĐIỂM, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên đang tịnh tu trên Tháp Bảo Đà, đỉnh Thổ Đầu Sơn, Tây Nguyên, VN, ngày 29 tháng 4 năm Đinh Dậu tức 24/5/2017.)
ĐỒ là nói Hoàng Đồ của ông Thiên Nhứt. PHÁT là mở rộng. THIÊN NHẤT ĐẠI ĐIỀN là nói nhân thân của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, là ông Thiên Nhất. TAM THẬP LỤC NGUYÊN CĂN là nói nhân thân của 36 vị luân châu giáng thế. [Chú giải của người soạn.]
MỘC chiết tự là chữ THẬP trên NHÂN dưới (mượn chữ Bát nói chữ Nhân vì Bát và Nhân đồng dạng). Nói chữ MỘC cũng là nói THẦY NHÂN THẬP, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. GIANG với HÀ đồng nghĩa con sông. THIÊN LONG GIANG hay THIÊN LONG HÀ là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. BẠCH VÂN là nói BẠCH VÂN ĐỘNG một nơi trong cõi vô hình quần tiên họp mặt để nghị định sách lược và vận hành cơ thiên dựng lập Nam Triều Phật Quốc, do Đức Trạng Trình (Bạch Vân Am cư sĩ, Thanh Sơn đạo sĩ) chủ quản. [Chú giải của người soạn.]
7.4
TRÀO TAM chính thức XUẤT THẾ kể từ khi xuống núi. Sau khi Tòa Đình Quốc Nội khởi công xây dựng thì Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam đã cùng "tăng đoàn vô vi" (tăng đoàn vô hình) bay về Hoa Kỳ để lo khai đạo và tạo lập Thánh Tòa Hải Ngoại tại Nam California.
Sau khi Đức Ngài Hoàng Di Thiên về lại Hoa Kỳ, chỉ một thời gian ngắn sau thì Thầy Phương Vũ được Thiên Thượng xoay chuyển cho qua Mỹ để hổ trợ cho Đức Ngài, và chư vị của Tam Giáo Tòa chuyển Thầy Phương Vũ về cư trú tại Saint Louis, MO. Từ khi Đức Ngài đưa Thầy Phương Vũ về Saint Louis, MO định cư tại đó thì chưa từng gặp lại nhau, dầu rằng Thầy Phương Vũ vẫn tiếp tục nhận thông điệp từ Tam Giáo Tòa và vẫn hỗ trợ cho Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN TRƯỜNG ĐIỂM ĐẠO HIỆP TÒA CHƯƠNG [hiệp Chương Tòa Trường Thiên điểm đạo]
ẤN CHỨNG ĐẠO KHAI QUẬN HUYỆN ĐƯỜNG [ấn chứng đạo khai khắp mọi nơi]
TÂY MẪU CA LI CUNG ĐIỆN TƯỚNG [cung điện Tây Mẫu tại California sẽ xuất hiện]
PHƯƠNG TAM THẬP LỤC ĐẠI THIÊN TRƯỜNG. [36 phương Đại La hiện Trường Thiên]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN CẦU CHUYỂN ĐỘNG ĐẠO TÂY PHƯƠNG [địa cầu chuyển động Đạo Phương Tây]
ẤN CHỨNG TAM THIÊN NHẤT ĐẠI ĐƯỜNG [ấn chứng ông Thiên Cả Trào Tam tại Hoa Kỳ]
TÂY MẪU CUNG LẦU LỘ ĐIỆN PHƯỚN [cung điện lầu phướn lộ Tây Phương Thánh Mẫu]
PHƯƠNG ĐIỀN PHẬT MẪU HÓA MINH VƯƠNG. [đất phương này Phật Mẫu hóa Minh Vương]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN NHIÊN TỰ TẠI HIỆN CÀN MÔN [tự tại tự nhiên hiện Cửa Trời]
ẤN THẬP BÁT TIÊN CHUYỂN ĐẠO TÔN [Bát Tiên chuyển Ấn đến Nhân Thập Đạo Tôn]
TÂY ĐÔNG NAM BẮC CUNG CÀN TỐN [bốn phương tám hướng Thiên Phong Cấu]
PHƯƠNG ĐẠO NHÂN TRUYỀN ĐỨC BẢO MÔN." [Phật Thiên cửa đạo Tây phương truyền]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN ẤN TÂY PHƯƠNG, thánh đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên vào ngày 19 tháng 9 năm Đinh Dậu tức 07/11/2017, lúc 9:55 sáng giờ California)
THIÊN ẤN TÂY PHƯƠNG là nói cái THIÊN ẤN dùng để đóng dấu lên sớ hay văn bản của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên (chế tác theo bản vẽ do Thiên Thượng chuyển xuống) đại diện cho quyền lực vô vi và hữu hình được Thiên Cao Chí Thượng ủy thác nhiệm vụ lập đạo khai giáo bên TÂY PHƯƠNG trong Kỳ Ba này. THIÊN ẤN TÂY PHƯƠNG còn ám chỉ ngôi vị Tây Phương Giáo Chủ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
CÀN MÔN là cửa Trời. ẤN là nói cái Thiên Ấn , tức Ấn Lệnh của Ngôi Hai Tây Phương. THẬP ĐẠO TÔN là nói của Đạo Tôn Thập Tự Công hay Thầy Nhân Thập, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. BÁT TIÊN gồm tám vị là : Lý Thiết Quải cưỡi bạch tượng, Hán Chung Ly cưỡi nai tiên, Lã Động Tân cưỡi hạc tiên, Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược, Lam Thái Hòa cưỡi mây, Hà Tiên Cô cưỡi chim phượng hoàng, Hàn Tương Tử cưỡi chim công, và Tào Quốc Cửu cưỡi mai hoa lộc. ẤN THẬP BÁT TIÊN CHUYỂN ĐẠO TÔN là nói các vị Bát Tiên chuyển cái Thiên Ấn đến Hội Thánh trao vào tay của Thầy Nhân Thập hay Thập Tự Công, tức là trao vào tay Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
ĐẠO NHÂN là nói Tiên. ĐỨC BẢO hay ĐỨC PHẬT BẢO, là nói Phật. ĐẠO NHÂN ĐỨC BẢO là nói Đức Thiên Phật, ám chỉ Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. PHƯƠNG ĐẠO NHÂN TRUYỀN ĐỨC BẢO MÔN hay ĐẠO NHÂN ĐỨC BẢO PHƯƠNG MÔN TRUYỀN là nói cửa đạo phương Tây giáo truyền của Đức Ngài Thiên Phật, như Kim Cổ Kỳ Quan đã khải lộ: "Nhị Thiên túc vật ngoại Phật nội Trời, Tây đặt thuận thời." [Chú giải của người soạn.]
CÀN TỐN là nói quẻ Thiên Phong Cấu, ngoại quái Càn nội quái Tốn, ý nghĩa là "Ngộ dã. Tương ngộ. Gặp gỡ, cấu kết, liên kết, kết hợp, móc nối, mềm gặp cứng. Phong vân bất trắc chi tượng: gặp gỡ thình lình, ít khi." (Trích dẫn trang web Tử Vi Cổ Học.) [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN TIÊN HUỲNH ĐẾ ẤN HUYỀN KHÔNG [Huyền Không ấn định Thiên Tiên Huỳnh Đế]
ẤN ĐỊNH TÂY PHƯƠNG GIỐNG LẠC RỒNG [định giống Lạc Long ấn tại Tây Phương]
TÂY ĐÔNG VẬN CHUYỂN HOÀNH LỰC TỔNG [tổng lực vận chuyển nối kết Tây Đông]
PHƯƠNG ĐẠI ĐẠO TRƯỜNG HIỆP GIÁO TÔNG. [phương Đại Đạo Trường hiệp Giáo Tông]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN HOÀNG LỰC LỊNH CỬU TRÙNG KHAI [Thiên Hoàng lực lịnh Cửu Trùng khai]
ẤN ĐỊNH NHƯ LAI LỘ BỬU BÀI [ấn định Ngôi Hai Trào Tam lộ bửu bài]
TÂY ĐẠO ĐỊA ĐIỀN THIÊN KỈNH BÁI [kỉnh bái Thiên Đạo đất địa phương Tây]
PHƯƠNG NAM HIỆP ĐẠO HIỆN ĐÔNG LAI. [hiệp đạo Nam Việt từ phương Đông đến]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN THƯỢNG GIÁO TAM MỘC ĐẢNH CẦU [Thiên Giáo Trào Tam thượng đảnh Mộc cầu]
ẤN TAM THẬP LỤC PHÁP GỒM THÂU [ấn ba mươi sáu pháp trọn gom thâu]
TÂY AN LUÂN CHUYỂN TAM THIÊN ẤN [Thiên Ấn Trào Tam chuyển đến Ca Li]
PHƯƠNG PHÁP ĐẠO THẦY THỐNG LỤC CHÂU. [Đạo Thầy phương pháp quy thống lục châu]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN DÂN SANH CHÚNG HỘI KỲ HOA [thiên dân sanh chúng hội tại Kỳ Hoa]
ẤN LỊNH CÀN KHÔN ĐẶT BỬU TÒA [Ấn Lịnh Tối Cao đặt tại bửu tòa]
TÂY ĐẠO GIÁO MÔN KHAI QUỐC BẢO [Quốc ngài khai môn phương Tây giáo đạo]
PHƯƠNG ĐÔNG NAM BẮC HỘI LI CA. [Đông, Nam, Bắc cùng hội về Li Ca]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN ĐÌNH HOÀNG CỰC THIẾT TRIỀU NGHI [Thiên Đình Thượng Đế thiết triều nghi]
ẤN MỤC TỌA VỊ LÃO KỈNH THI [chính mắt thấy Thiên Ấn tọa vị, Lão cung kính hành lễ]
TÂY ĐIỆN CUNG LẦU GÓT ĐẢNH KÝ [đầu chân chạm đất khấu cung điện Tây Lầu]
PHƯƠNG TRƯỜNG LỤC ĐỊA ĐẠO VÔ VI." [phương Trường Thiên Đạo Vô Vi giáo lục châu]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN ẤN TÂY PHƯƠNG, thánh đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên vào ngày 19 tháng 9 năm Đinh Dậu tức 07/11/2017, lúc 9:55 sáng giờ California)
HUYỀN KHÔNG là nói Huyền Không Chí Thượng, nói Linh Tiêu Điện, nói Bạch Ngọc Cung, nói Đài Cao tột huyền không, nói Huyền Khung Thượng Đế, nói Vô Cực Huyền Thiên, nói Thiên Triều Bạch Ngọc. GIỐNG LẠC RỒNG là nói dòng tộc Lạc Long, nhưng ý ở đây có ý nói Lạc Long Quân. GIÁO TÔNG là nói Giáo Tông của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. MỤC là nói mục thị, tận mắt nhìn thấy. KỈNH là cung kính. THI là thi lễ, hành lễ. GÓT ĐẢNH KÝ là nói quỳ lạy đảnh lễ theo nghi thức Phật giáo, gót chạm mông đầu chạm đất (gót đãnh) dâng lên (ký) sự tôn kính. TÂY AN là nói Trường An của phương Tây, tức nói California. Sấm ký thường ví Hoa Kỳ với Đại Đường và California của Hoa Kỳ với Trường An của Đại Đường. LÃO là đấng vô hình giáng điển ra bài đã tự xưng. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN NON NAM ĐẢNH CHUYỂN BÁT TIÊN [non đảnh trời Nam Bát Tiên chuyển đến]
ẤN CHỨNG ÂN THIÊN KẾT MỐI GIỀNG [cái Thiên Ấn, Ân Thiên chứng kết giềng mối Thiên]
TÂY ĐẠO THIÊN TRƯỜNG LIÊN KẾT DIỆN [Trường, Đạo phương Tây liên kết với phương]
PHƯƠNG ĐÔNG CHUYỂN ĐIỂN ĐẠO SƠN LIÊN. [Đông để chuyển Điển Đạo Sơn Liên]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN HẠ KỲ HƯƠNG THƯỢNG THÁI HÒA [thiên hạ kỳ hương thượng hòa thái]
ẤN BÀI LỤC BỬU ĐẠO NHO GIA [Nho gia, Đạo gia, Bửu Sơn ghi ấn bài]
TÂY PHƯƠNG PHẬT ĐẠO KIM LOAN HÓA [Tây Phương Phật Đạo Kim Mẫu hóa]
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH THIÊN ĐẠO CHA. [Thiên Đạo Cha phương pháp thực hành.]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN LONG GIANG ĐIỂM LỘ HOA MAI [Thiên Long Hà điểm lộ diện Kim Anh]
ẤN ĐỊNH THIÊN KHAI HIỆN ĐỨC NGÀI [Thiên Khai ấn định Đức Ngài hiện thân giáo đạo]
TÂY ĐẠO GIÁO TRÌNH KẾT BỬU BÁI [Tây Phương, Kim Anh trình bái kết nghĩa đạo đồng]
PHƯƠNG TÙNG GỐC MỘC ĐỊNH NHƯ LAI. [đã định phải tuân theo Nhân Thập Như Lai]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN BÌNH TÂN QUỐC ĐẠO ĐỜI TÂN [Thiên Bình Tân Quốc đạo đời]
ẤN DIỆN LIÊN SƠN KẾT ĐẠO CẦN [ấn lịnh Sư Tân diện kiến Sơn Liên để kết đạo thuyền]
TÂY PHẬT THÁNH TIÊN QUY NHẤT ẤN [Phật Thánh Tiên quy nhứt Tây Phương Ấn]
PHƯƠNG ĐIỀN HƯỞNG PHƯỚC LỘC THIÊN ÂN. [địa phương hưởng phước lộc Thiên Ân]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
THIÊN TÔN LỊNH ẤN THỐNG LONG CHÂU [Thiên Tôn Ấn Lịnh thống Long Châu]
ẤN ĐẠI KIM THIÊN HIỆN THẤT CẦU [ấn đại đẳng Thiên Kim hiện thất cầu]
TÂY MẪU ẤN THIÊN KIM LÀM DẤU [Thiên Kim Tây Mẫu làm dấu ấn, tuân theo]
PHƯƠNG TÙNG THIÊN ẤN CHUYỂN HOÀN CẦU." [Thiên Ấn Tây Phương chuyển hoàn cầu]
[Khoán thủ: Thiên Ấn Tây Phương]
(Trích dẫn sấm ký THIÊN ẤN TÂY PHƯƠNG, thánh đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO. Hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên vào ngày 19 tháng 9 năm Đinh Dậu tức 07/11/2017, lúc 9:55 sáng giờ California)
THIÊN BÌNH TÂN QUỐC là thiên danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. THIÊN LONG GIANG cũng là THIÊN LONG HÀ là nói Thiên Long họ Hà, vì chữ GIANG và chữ HÀ cùng một nghĩa, ám chỉ Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. HOA MAI là nói nữ tử Mai Vàng, tức ám chỉ nữ tử tên KIM ANH. ANH 柍 viết với bộ Mộc là chỉ cây MAI. KIM 金 tỉnh từ là màu vàng. THIÊN BÌNH là cây cân thiên bình, một pháp khí của Thượng Đế biểu tượng cho người cầm quyền công lý xét xử công tội thế gian. LIÊN SƠN cũng là SƠN HÀ là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. TÂY PHẬT THÁNH TIÊN QUY NHỨT ẤN là nói tất cả Phật Thánh Tiên đều theo sự điều động của THIÊN ẤN TÂY PHƯƠNG vì ấn này đại diện cho quyền năng tối thượng của Thiên Triều Bạch Ngọc. THIÊN KIM hay THIÊN NHỨT KIM là hiệu của bà Kim Anh, phong danh Thiên Kim Tây Mẫu. THIÊN TÔN là đấng được các Phật Tiên Thánh Thần tôn kính, dù là đấng này đang ở trong cõi giới vô hình hay đang hiện thân trong thế gian hữu hình, mặc cho người trong thế gian có biết hay không biết. Cha Huyền Không Thượng Đế và Mẹ Vô Cực Từ Tôn được Phật Tiên Thánh Thần tôn kính là ĐẠI THIÊN TÔN. [Chú giải của người soạn.]
“THIÊN ĐẠO THÁNH NGỌC HOÀNG ĐẠI LỰC [Thiên Đạo Thánh Ngọc Hoàng đại lực]
CHÚA MINH TÔN HUYỀN LỆNH THIÊN ĐÀI [lệnh Thiên Đài Minh Chúa Huyền Tôn]
ĐÀI ĐỀN TAM THÁNH NGÔI CAO [dựng đền đài Tam Thánh ngôi cao]
VÂN LONG TÁM ĐIỂM HỒNG CHÂU ĐỈNH ĐẦU [mây rồng bát quái hồng châu đỉnh đầu]
HIỆP TỨ TƯỢNG THƯỢNG NGUYÊN BÌNH ĐÁY [nền bằng phẳng thượng tường bốn phía]
HIỆP LONG CHÂU GIANG ĐIỂM ĐÀI THIÊN [Long Châu Hà điểm Hiệp Thiên Đài]
BÀN TRÒN VẬN CHUYỂN KHAI NGUYÊN [bàn tròn vận chuyển nguyên khai, long châu]
LONG CHÂU GIANG ĐIỂM HUYỀN THIÊN NGỌC TÒA [Hà điểm tòa ngai Ngọc Huyền]
THẦY SƠN BỬU NGỌC NGÔN PHÂN TÁNH [Thầy Bửu Sơn ngọc ngôn phân tánh]
ĐỊNH THỨ PHÂN THEO TÁM LONG CHÂU [định trước sau theo tám long châu]
CẤP CHO TỨ TRỤ ĐỒ THIÊN [cấp cho Tứ Trụ Đồ Thiên, long châu long trượng]
LONG CHÂU LONG TRƯỢNG ĐẠO THIÊN HIỆN HÌNH.” [Đạo Thiên hiện hình]
(Trích dẫn sấm ký HIỆP TRẦN TAM THIÊN, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên ngày 15 tháng 5 năm Đinh Dậu tức 09/6/2016.)
"KHAI ĐẠO HOÀNG THIÊN HIỆN ĐẠI ĐÀN [khai đạo Hoàng Thiên hiện đại đàn]
PHÁP THIÊN VÔ CỰC XUẤT TÂY AN [Pháp Thiên Vô Cực xuất Tây An]
ĐÀN LONG ÁN ĐỊNH NIÊN THIÊN ĐẠO [đàn long án định niên Thiên Đạo]
CƠ PHÁP PHẬT THIÊN ĐẠO PHÁP BAN.[cơ pháp Thiên Phật đạo pháp ban]
[Khoán L: Cơ Đàn Pháp Khai Đạo. Hoàng Thiên Hiện Đại Đàn]
HỮU ĐỨC TẦM TRI LÝ DIỆU HUYỀN [hữu đức tri tầm lý diệu huyền]
CƠ MẦU XUẤT ĐẾ ĐẠO HUYỀN THIÊN [cơ mầu xuất Huyền đạo Đế Thiên]
PHÁP TÂM THIÊN ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO [chơn giáo đại thừa thiên tâm pháp]
THIÊN XUẤT LUẬT, THƠ BỬU PHÁP TRUYỀN. [Trời xuất luật thơ bửu pháp truyền]
[Khoán L: Hữu Cơ Pháp! Thiên Xuất Luật, Thơ Bửu Pháp Truyền.]
TRẦN MIỀN NAM VIỆT HIỆN TÒA LIÊN [tòa liên hiện Nam Việt trần miền]
VĂN VÕ THIÊN CĂN ĐẠO PHÁP TRUYỀN [thiên căn pháp đạo văn võ truyền]
TÂN LUẬT NAM THIÊN ĐẠI QUỐC ĐẠO [Tân Luật Đại Đạo Nam Thiên Quốc]
KHAI ĐÀN THIÊN ĐẠO HIỆU HUYỀN THIÊN. [khai đàn Thiên Đạo hiệu Huyền Thiên]
[Khoán L: Trần Văn Tân Khai Đàn Thiên Đạo Hiệu Huyền Thiên.]
HUYỀN THIÊN VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN [Vô Cực Huyền Thiên Đại Từ Tôn]
HƯNG ĐẠO AN NAM THUYẾT GIÁO NGÔN [chấn Đạo An Nam thuyết giáo ngôn]
QUỐC ĐỨC TRƯỜNG THIÊN MẪU VÕ TRỤ [Quốc lão Trường Thiên khuôn vũ trụ]
HÀ VÂN PHONG HỘI HIỆP THIÊN MÔN. [Hà phong Vân Hội hiệp Thiên Môn]
[Khoán L: Hà Quốc Hưng Huyền Thiên Vô Cực Đại Từ Tôn]
THIÊN MÔN HUỲNH ĐẾ XUẤT AN NAM [An Nam Huỳnh Đế xuất Thiên Môn]
NGỰ BÚT VÕ VĂN TÒA GIÁO TAM [ngự bút võ văn Tam Giáo Tôn]
KHAI ÁN ĐÀN CƠ NIÊM LUẬT ĐẠO [khai cơ đàn án niêm Luật Đạo]
DIÊU TRÌ KIM MẪU ẤN THIÊN NAM. [Diêu Trì Kim Mẫu ấn Thiên Nôm]
[Khoán U: Thiên Môn Huỳnh Đế xuất An Nam ngự khai, Diêu Trì Kim Mẫu ấn Thiên Nam.]
THIÊN NAM CỬU ẤN BẠCH VÂN AM [Nam Thiên cửu ấn Bạch Vân am]
CHỦ BÚT TÙY CĂN CƠ PHÁP TÂM [bút chủ tùy căn pháp tâm làm]
CHÁNH KIẾN ĐẠI KỲ LIÊN CHÁNH ĐẠO [Đại Đạo Liên Kỳ chánh kiến chánh]
ĐIỂN THẦY ĐIỂN MẪU ĐIỂN QUAN ÂM. [điển Thầy điển Mẫu điển Quan Âm]
[Khoán U: Thiên Nam Cửu Ấn Bạch Vân Am (Trạng Trình) Chủ Chánh. Điển Thầy, Điển Mẫu, Điển Quan Âm.]
(Trích dẫn sấm ký KHAI PHÁP ĐÀN CƠ, thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương, Tắc Vân, Cà Mau, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ tiếp nhận nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi tới Đức Ngài Hoàng Di Thiên ngày 16 tháng 6 năm Đinh Dậu tức 09/7/2017.)
TÂY AN là nói Trường An của Phương Tây, tức nói California của Hoa Kỳ. Thời Đại Đường thì Trường An là kinh đô phồn thịnh bậc nhất của đất nước và là cái nôi của mậu dịch quốc tế. Ngày nay, California là tiểu bang phồn thịnh bậc nhất của Hoa Kỳ và cũng là cái nôi của mậu dịch quốc tế. Vì thế California của Hoa Kỳ được ví với Trường An của Đại Đường. PHÁP THIÊN VÔ CỰC XUẤT TÂY AN là nói Đạo Pháp Thiên Tiên của Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế xuất thế tại Trường An của Phương Tây, tức California của Hoa Kỳ. ĐÀN LONG ÁN ĐỊNH NIÊN THIÊN ĐẠO, CƠ PHÁP PHẬT THIÊN ĐẠO PHÁP BAN là nói năm này (Đinh Dậu 2017) được định là năm đầu tiên của nền Thiên Đạo, và chiếu theo cơ pháp là năm đầu tiên mà Đức Ngài Thiên Phật bắt đầu hoằng hóa pháp đạo tại California, Hoa Kỳ. [Chú giải của người soạn.]
7.5
TRÀO TAM XUẤT THẾ là một một sự kiện quan trọng được rất nhiều nhà tiên tri, nhiều sách khải huyền nhắc tới. Năm trăm năm trước Trạng Trình cũng đã huyền khải về sự kiện này trong sấm ký của ngài. Một số câu sấm của cụ Trạng đã khải lộ nhân thân của Trào Tam Xuất Thế như:
"MỘC HẠ LIÊN ĐINH KHẨU [chữ Mộc Hạ Liên, chữ Đinh Khẩu]
HỨA CẬP THÁNH NHÂN DANH." [đó là tên họ của Thánh]
"THỦY TRUNG TÀNG BẢO CÁI [Thủy Trung Huyệt ẩn Phật Lớn]
HỨA CẬP THÁNH NHÂN HƯƠNG." [đó là quê hương Thánh]
"PHÁ ĐIỀN THIÊN TỬ XUẤT." [hình Điền thật hình Vi Vương, phá Vi Vương lộ đố ai chữ gì?]
"CHỮ RẰNG LỤC THẤT NGUYỆT GIAN [chữ rằng thời gian tháng 6 tháng 7]
ĐỐ AI BIẾT ĐƯỢC MỚI GAN ANH TÀI." [ai mà biết được mới phải anh tài]
"CÓ THẦY NHÂN THẬP ĐI VỀ [có Đức Ngôi Hai từ Phương Tây về]
TẢ HỮU PHÙ TRÌ CÂY CỎ THÀNH BINH." [tả hữu phù trì cây cỏ thành binh]
MỘC HẠ LIÊN là nói chữ 荷 này, viết với bộ Thảo, phát âm Hạ/Hà, nghĩa là Liên). Trong cách đánh đố Trạng Trình mượn bộ Mộc để chỉ bộ Thảo vì Thảo 艹 và Mộc 木 đồng tông. Dị tự của chữ HÀ 荷 này viết thành chữ HÀ 何 này. ĐINH KHẨU là nói chữ 何 này, là hợp tự của chữ ĐINH 仃 và chữ KHẨU 口 , phát âm là HÀ, nghĩa là họ HÀ. Hợp tự của cụm chữ Mộc Hạ Liên và của cụm chữ Đinh Khẩu đều là nói về chữ HÀ. Do đó, hai câu MỘC HẠ LIÊN ĐINH KHẨU, HỨA CẬP THÁNH NHÂN DANH khải lộ danh tánh Thánh là HÀ. [Chú giải của người soạn.]
THỦY TRUNG là nói Thủy Trung Huyệt, là một huyệt âm trong 12 đại huyệt của Miền Nam. Trong tập Đồ Thư của Đức Phật Bổn Sư có giải thích về 12 huyệt này. Huyệt Thủy Trung nằm tại tỉnh Hà Tiên xưa (Hà Tiên và Phú Quốc). Vì nó là huyệt âm nên chỉ xuất Thánh. Phối kiểm sự thật lịch sử cho thấy tại vùng đất Hà Tiên đã xuất nhiều vị thánh. Thí dụ như Đức Ngôi Hai Trào Một Cao Đài Giáo Chủ Ngô Văn Chiêu ngộ đạo tại Phú Quốc (thuộc tỉnh Hà Tiên); Đức Ngô Văn Dư Giáo Chủ Thiên Khai Huỳnh Đạo sanh ra và hóa tại Hà Tiên; Đức Minh Đăng Quang Giáo Chủ Phật Giáo Khất Sĩ chứng đạo tại Bãi Nò, Hà Tiên. Đại Đức Hà Văn Điền Quyền Tam Trấn Hà Giang, sinh và hóa tại Hà Tiên; Đương thời có Đức Ngài Hoàng Di Thiên Hà Hưng Quốc Ngôi Hai Trào Tam, Đức Thể Nguyên của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên và là Giáo Tông Hữu Vô của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba; và còn nhiều vị khác nữa. THỦY TRUNG TÀNG BẢO CÁI, HỨA CẬP THÁNH NHÂN HƯƠNG là nói nơi đất Thủy Trung Huyệt có ẩn vị Phật Lớn (tàng bảo cái), đó là quê hương Thánh. Tóm lại hai câu này nói Hà Tiên là quê hương Thánh. [Chú giải của người soạn.]
Chữ ĐIỀN 田 nghĩa là ruộng. Chữ VI 囗 , nghĩa là vây quanh, và chữ VƯƠNG 王, nghĩa là Vua tức Thiên Tử, chồng lên nhau làm thành chữ ĐIỀN. PHÁ ĐIỀN là làm cho chữ Vương nhỏ lại, nhỏ hơn chữ Vi, sẽ thấy chữ 囯 này hiện ra, là chữ QUỐC. Do đó, câu PHÁ ĐIỀN THIÊN TỬ XUẤT là nói chữ QUỐC, khải lộ tên của Thầy Nhân Thập tức Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
LỤC THẤT NGUYỆT GIAN là nói thời gian tháng sáu, bảy. Chính xác hơn là tháng 6 âm lịch và tháng 7 dương lịch. CHỮ RẰNG LỤC THẤT NGUYỆT GIAN, ĐỐ AI BIẾT ĐƯỢC MỚI GAN ANH TÀI là nói Thánh Nhân sanh trong thời gian tháng 6 âm lịch và tháng 7 dương lịch. Huyền khải này ứng nghiệm chính xác. Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam sanh vào một đêm trăng tròn tháng 6 âm lịch và tháng 7 dương lịch. [Chú giải của người soạn.]
THẦY NHÂN THẬP là hình ảnh của Thánh Chúa (Thầy) Jesus (nhân) bị đóng đinh trên thập tự giá (thập). Dưới thế Đức Ngài là Ngôi Hai con của Thiên Chúa Cha. Hai ngàn năm trước Đức Ngài hiện thân là Ngôi Hai Tây Phương Ki Tô Giáo Chủ. CÓ THẦY NHÂN THẬP ĐI VỀ, TẢ HỮU PHÙ TRÌ CÂY CỎ THÀNH BINH là nói về sự kiện Ngôi Hai từ Tây Phương quay về. Đức Ngài được ủy thác sứ mạng, được trao ấn sắc để điều động các vị trong vô hình, được vô sự ấn chứng và che chở của Thiên Thượng nên mới nói "tả hữu phù trì cây cỏ thành binh". Trong ba trào Ngôi Hai thì chỉ có Ngôi Hai Trào Tam là thuận theo thiên thời ra hải ngoại mở đạo khai giáo và rồi sẽ quay về Nam Bang Phật Quốc trong tương lai. [Chú giải của người soạn.]
Ngày 12 tháng 12 năm Đinh Hợi 1947, Đức Chí Tôn giáng cơ cho bài thi tám câu và bảo giao cho Vua Bảo Đại. Tuy phần bạch văn có nội dung dễ hiểu nói về tình hình đất nước và tương lai Hoàng gia nhà Nguyễn nhưng phần sấm ký ẩn mật lại khải lộ về nhân thân của Trào Tam Xuất Thế. [Chú giải của người soạn.]
"THƯỢNG HẠ NHỊ THIÊN XỬ ĐỊA HƯỜN [Ngôi Hai xét xử địa cầu từ trên xuống]
VIỆT NAM NHỨT QUỐC NHỨT GIANG SƠN [Việt Nam một Quốc một Sơn Hà]
HOÀNG ĐỒ TOÀN BẢO THIÊN THƠ ĐỊNH [bảo toàn hoàng đồ Đỉnh Thiên đã định]
ĐẢNH TỘ TRƯỜNG LƯU TỔ NGHIỆP TỒN [ trường lưu phúc vận tổ nghiệp bảo tồn]
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO [Đại Đạo ngày sau thành Quốc Khách Đại Đạo]
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG [vănhóa ĐạoNam ngày sau chuyển nhân loài]
AN DÂN LIỆT THÁNH TÙNG NGHIÊU THUẤN [tùng theo Nghiêu Thuấn liệt thánh để an dân]
VĂN HÓA TƯƠNG LAI HIỆP ĐẠI ĐỒNG." [vănhóa ĐạoNamPhương ngàysau hiệpcả đạiđồng]
(Trích dẫn sách KHẢO LUẬN XÂY BÀN VÀ CƠ BÚT TRONG ĐẠO CAO ĐÀI, tác giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, bút hiệu Đức Nguyên. Đàn cơ ngày 12 tháng 12 năm Đinh Hợi 1947, Đức Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo phò loan.)
ĐỊA HƯỜN hay ĐỊA HOÀN là nói trái địa cầu, trái đất. NHỊ THIÊN là nói Trời chiết linh quang hóa thân xuống thế, là nói NGÔI HAI, ví dụ như Đức Ngài Nhị Thiên Giáo Chủ Võ Văn Phẩm là Ngôi Hai Trào Hai. THƯỢNG HẠ NHỊ THIÊN XỬ ĐỊA HƯỜN là nói trong cuộc "phong thần bá gia" Ngôi Hai sẽ cầm cân công lý xét xử từ trên xuống dưới không có ngoại lệ. Dĩ nhiên là xét xử trong cõi vô hình chứ cõi hữu hình làm gì có thực quyền để xử ai. Đồng thời câu THƯỢNG HẠ NHỊ THIÊN XỬ ĐỊA HƯỜN cũng là nói trên có Hoàng Thiên Cha dưới có Ngôi Hai Con tại thế đại diện cầm cân công lý xét xử địa cầu. Điều này đã được huyền khải từ hai ngàn năm trước là Thiên Chúa Ngôi Hai sẽ trở lại thế gian để phán xét thế gian. HOÀNG ĐỒ là sự nghiệp của Hoàng Gia, ý nói cơ đạo của Đức Ngài Hoàng Di Thiên. ĐẢNH THIÊN là nói Cha Mẹ Thiên Cao và Tam Giáo Thánh Tòa. TỘ là phúc vận. QUỐC ĐẠO là nói cơ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO. QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO hay đúng hơn là ĐẠI ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH QUỐC ĐẠO là nói Đại Đạo ngày nay (Cao Đài) ngày sau sẽ biến thành Quốc Khách Đại Đạo nơi xứ người. TỔ NGHIỆP TỒN là nói cơ nghiệp của Quốc Tổ Lạc Long tiếp tục tồn tại. NAM PHONG là văn hóa Nam Phương chính xác hơn là văn hóa Đại Đạo Nam Phương, tức văn hóa Đại Đạo Vô Vi của Chí Tôn thiết lập. THỬ NHỰT là một ngày nào đó. BIẾN NHƠN PHONG là nói chuyển hóa văn hóa nhơn loài, chuyển hóa văn hóa thế giới. NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG AN DÂN LIỆT THÁNH TÙNG NGHIÊU THUẤN là nói có một ngày nào đó văn hóa Đại Đạo Vô Vi của Nam Phương sẽ chuyển hóa văn hóa nhơn loài, chuyển hóa văn hóa thế giới, tùng theo gương liệt thánh Nghiêu Thuấn để an dân (biến thành xã hội vô tranh). VĂN HÓA TƯƠNG LAI là nói văn hóa ĐẠI ĐẠO VÔ VI của Việt Nam chứ không phải nói văn hóa đời thường của dân Việt ngày nay với đầy dẫy vô minh và bao điều đáng trách đáng thương. [Chú giải của người soạn.]
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thuyết đạo tại Đền Thánh thời Tý ngày 24-5-Mậu Tý (dl 30-6-1948) có kể lại như vầy: “Bần đạo nhớ khi lên mở Hội Thánh Ngoại Giáo trên Kim Biên, năm 1927, đặng truyền giáo, Đức Chí Tôn cho Bà Phối Sư Hương Lự của chúng ta được thông công cùng Ngài, nhờ nghe nhờ thấy đặng truyền Pháp cho Bần đạo. . . . Đức Chí Tôn nói với Bần đạo rằng: Một ngày kia, Trung Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo để, còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi truyền giáo toàn cầu." (Trích dẫn sách KHẢO LUẬN XÂY BÀN VÀ CƠ BÚT TRONG ĐẠO CAO ĐÀI, tác giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, bút hiệu Đức Nguyên.) [Chú giải của người soạn.]
Câu nói "nước Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi truyền giáo toàn cầu" chính là huyền khải về cơ QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO do Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam theo lịnh Chí Tôn mở đạo tại đất khách Hoa Kỳ, lập Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, và khai giáo Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba tại miền đất bảo châu California. [Chú giải của người soạn.]
"CẢNH TRÍ THIÊN NHIÊN TRƯỚC SẮP BÀY [cảnh trí tự nhiên sắp bày trước, khi thấy]
HUYỀN VI LỐ BÓNG ĐẠO HOẰNG KHAI [Huyền Thiên lố bóng Đạo sẽ lần nữa hoằng khai]
NON SÔNG BỐN MẶT TRỜI SOI SÁNG [ông Sơn Hà Minh Thiên bốn hướng xoay]
NHƠN VẬT MƯỜI PHƯƠNG ĐẤT CHUYỂN XOAY [đất chuyển mười phương nhơn vật]
SỨ MẠNG TAM KỲ TRAO VIỆT QUỐC [sứmạng KỳBa traocho ôngQuốc ngườiViệt chủquyền]
CHỦ QUYỀN NHỨT THỐNG LẬP CAO ĐÀI [lập Cao Đài Vô Vi Trào Tam nhứt thống cơ cuộc]
HẠ NGƯƠN SĨ TỬ MAU MAU BƯỚC [sĩ tử cuối Hạ Ngươn mau mau bước tới]
ỔN ĐỊNH CÀN KHÔN ĐÃ ĐẾN NGÀY." [đã đến ngày phải càn khôn ổn định .]
(Trích dẫn sách HUỆ PHÁP THIÊN TÔN & TÂY DU CHƠN GIẢI, Thiên Minh Chơn, Chiếu Minh biệt Giáo Hải Ngoại, xb 2021. Trích dữ liệu đàn giờ Tuất ngày 14 tháng 3 năm Đinh Mùi (23/4/1967) tại Dương Đông Phú Quốc, trong dịp Lễ Kỷ niệm Đức Ngôi Hai Giáo Chủ, Cao Đài Hội Thánh Chiếu Minh Vô Vi. Ngôi Hai Trào Một Ngô Minh Chiêu giáng điển.)
TRƯỚC SẮP BÀY là nói SẮP BÀY TRƯỚC. Mà sắp bày trước là muốn nói việc gì? Là sắp bày trước “cảnh trí huyền vi lố bóng Đạo hoằng khai”. Như vậy rõ ràng là đang nói về sự chuẩn bị cho một nền Đại Đạo sắp ra đời trong tương lai gần. Sấm ký này xuất thế vào năm 1967, vào thời điểm này chư đạo hữu Cao Đài vẫn chưa nhận ra danh của THẦY CHA là VÔ CỰC HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ cho nên chẳng viết Hoa chữ khoán ẩn “Huyền Thiên” trong hai câu đầu. LỐ BÓNG là nói mặt trời sắp mọc, việc sắp xảy ra. Tới năm 1967 thì Đại Đạo Tam Kỳ Cao Đài Phổ Độ đã tới đỉnh vinh quang rồi chứ không phải chuẩn bị “lố bóng” cho nên cụm chữ ĐẠO HOẰNG KHAI chắc chắn không nói tới Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà là huyền khải sự ra đời của QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO, CAO ĐÀI VÔ VI TRÀO TAM XUẤT THẾ, THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA. Chữ NON đồng với chữ SƠN. Chữ SÔNG đồng với chữ HÀ. Vì thế chữ NON SÔNG đồng với chữ SƠN HÀ. Sơn Tùng là đạo hiệu của Phật Thầy Tây An, còn Sơn Hà hay Sơn Liên là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. Chữ HÀ 荷 này có nghĩa là Sen, Liên Hoa cho nên hiệu SƠN HÀ cũng là SƠN LIÊN là vì lý do như vậy. TRỜI SÁNG đồng nghĩa với chữ MINH THIÊN, đạo hiệu của Huyền Thiên dưới thế. SOI SÁNG là CHIẾU. Tỏa sáng là MINH. TRỜI SOI SÁNG đồng nghĩa với TRỜI CHIÊU. Chữ CHIÊU 炤 còn phát âm là CHIẾU nghĩa là sáng tỏ. Như vậy, TRỜI SOI SÁNG đã ẩn ý nói rõ Đức Ngài Ngôi Hai Ngô Minh Chiêu là ông TRỜI CHIÊU rồi. Đồng thời toàn câu cũng có ý nói rằng bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc trời soi sáng ông Sơn Hà. BỐN MẶT hàm chứa hai nghĩa: (a) Nghĩa bạch văn là Bốn Phương; (b) Nghĩa sấm ký là “Bốn nhân diện”. Bốn nhân diện đó là (1) Yeshua tức Jesus Christ là Ngôi Hai Giáo Chủ Cơ Đốc nơi Phương Tây; (2) Trào Một Ngôi Hai Ngô Văn Chiêu, đạo hiệu Ngô Minh Chiêu, Giáo Chủ Đài nơi Phương Đông; (3) Trào Hai Nhị Thiên Võ Văn Phẩm, Giáo Chủ Cao Đài nơi Phương Đông; (4) Trào Ba Ngôi Hai Hoàng Di Thiên Hà Hưng Quốc, đạo hiệu SƠN HÀ hay SƠN LIÊN hay MINH THIÊN và thiên danh là THIÊN QUỐC hay THIÊN BÌNH TÂN QUỐC. ĐẤT CHUYỂN XOAY là nói Mẹ Vô Cực Diêu Trì Địa Mẫu chuyển xoay. SỨ MẠNG TAM KỲ TRAO VIỆT QUỐC NHỨT THỐNG CHỦ QUYỀN LẬP CAO ĐÀI là sứ mạng Trào Tam trao cho người Việt tên Quốc nắm chủ quyền thiết lập CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO VÔ VI KỲ BA nhứt thống cơ cuộc. ỔN ĐỊNH CÀN KHÔN ĐÃ ĐẾN NGÀY là nói trời đất đã đến lúc phải "tẩy trần" để tái lập lại sự quân bình. [Chú giải của người soạn.]
"THIÊN QUANG VŨ TRỤ ÁNH MUÔN MÀU [Thiên quang ánh muôn màu khắp vũ trụ]
HUYỀN PHÁP TAM KỲ MỘT TÚI THÂU [Huyền pháp Kỳ Ba thâu vào một túi]
CHUỐC CHÉN KIM TƯƠNG CÙNG THẾ SỰ [chuốc chén rượu huỳnh cùng thế sự]
CÓ AI THEO LÃO ĐẾN VƯỜN ĐÀO."[có ai theo Lão Động Đình tới vườn đào]
(Trích dẫn sách HUỆ PHÁP THIÊN TÔN & TÂY DU CHƠN GIẢI, Thiên Minh Chơn, Chiếu Minh biệt Giáo Hải Ngoại, xb 2021. Trích dữ liệu đàn giờ Tuất ngày 14 tháng 3 năm Đinh Mùi (23/4/1967) tại Dương Đông Phú Quốc, trong dịp Lễ Kỷ niệm Đức Ngôi Hai Giáo Chủ, Cao Đài Hội Thánh Chiếu Minh Vô Vi. Động Đình Tiên Trưởng giáng điển họa lại thi bài của Ngôi Hai Ngô.)
HUYỀN PHÁP TAM KỲ MỘT TÚI THÂU là nói huyền pháp Kỳ Ba thâu vào một túi, tức là đã huyền khải cơ quy nhứt của Huyền Thiên Thượng Đế thời kỳ Trào Tam Xuất Thế. [Chú giải của người soạn.]
7.6
Tất cả các mối "đạo nhà" (thí dụ như Tứ Ân, Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn, Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên Khai Huỳnh Đạo, Thiên Ánh Đạo Vàng) và các cao nhân xưa và nay (thí dụ như Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ông Ba Thới, Tứ Thánh, Phật Bổn Sư, Phật Thầy, Đức Phạm Công Tắc, Bần Sĩ Vô Danh, Trúc Lâm Nương và nhiều ẩn sĩ khác mà người đời còn chưa biết tới) đều nói rất nhiều về Đại Hội Long Hoa và Kỳ Ba lập đời Thánh Đức. Dưới đây là một số sấm ký đã khải lộ nhiều về nhân thân của TRÀO TAM XUẤT THẾ (Kỳ Ba xuất thế) được đề cử để làm thí dụ. [Chú giải của người soạn.]
“THIÊN TUẾ NGỌC TÒA CHUYỂN CÁC LÂN [Tòa Chương Ngọc Đế chuyển khắp các lân]
KHAI MINH HUỆ TRÍ CỔ TRI TÂN [khai minh huệ trí ôn cổ tri tân]
HƯNG ĐẠO TỊNH DANH TÌM CÁC CÕI [tịnh danh ông đạo Hưng tìm các cõi]
QUỐC VIỆT QUY CĂN LẬP ĐỜI TÂN [ông đạo Quốc người Việt quy linh căn lập đời tân]
SỨ XỨ HÀ SƠN QUY MỘT CÕI [sứ của các xứ ông Sơn Hà quy về một cõi]
MỆNH THIÊN CỬU PHỤC VỚI CÁC LÂN [mệnh Cửu Thiên thâu phục các lân]
PHỤNG SỰ ĐÀI MÂY NGÔI THIÊN ĐẾ [phụng sự Ngọc Đài Ngôi Thiên Đế]
HÀNH CHUYỂN VÔ VI HIỆP THẾ TRẦN. [hành chuyển vô vi hiệp thế trần]
[Khoán thủ: Thiên Khai Hưng Quốc Sứ Mệnh Phụng Hành]
BỬU LINH TỰ KHAI MINH CHẤP BÚT [Bửu Linh Tự chấp bút giải rõ ràng]
SƠN LIÊN ĐÀI GIỤC THÚC MÀN BA [Sơn Liên ngự đài giục thúc Kỳ Ba màn]
KỲ HUỲNH THIÊN XUẤT HIỆN BỬU TÒA [Bửu Thiên Tòa xuất hiện Huỳnh Long phướn]
HƯƠNG ĐẠI VIỆT QUÂN CỜ LẬP HỘI [quê hương Đại Việt sắp quân cờ lập hội]
SỰ BIẾN THIÊN NÚI SÔNG DỜI ĐỔI [sự biến thiên rồi sẽ thấy núi dời sông đổi]
CÕI NHƠN HOÀN KHAI HỘI MÀN BA [cả nhơn loại hoàn cầu khai hội Màn Ba]
THIÊN KHAI MINH BỬU GIÁO CHƠN TÒA [Minh Thiên khai Bửu Giáo Chơn Tòa]
PHÂN ĐỊNH RÕ CHÁNH TÀ BAN TRỊ. [chánh với tà trị ban phân định rõ]
[Khoán thủ: Bửu Sơn Kỳ Hương, Bửu Linh Tự]
CHA NGỌC ĐẾ MINH MINH ẤN CHIẾU [Minh Minh Thượng Đế Cha ấn chiếu]
CHƯA TRUYỀN GIÁO THÂM THÂM VI DIỆU [chưa giáo truyền vi diệu thậm thâm]
NAY HỒI QUY ĐỒNG ĐIỆU ĐỒNG MÔN [nay tri âm quy hồi thành đồng môn]
NAM THIÊN MÔN PHÂN RÕ XÁC HỒN [Cửa Nam Thiên xin phân rõ xác hồn]
TÀ VỚI CHÁNH ĐÂU TỒN ĐÂU TẬN… [tà với chánh đâu sẽ còn tồn đâu bị diệt tận]
BAO SĨ HIỀN TỪ LÂU QUY ẨN [bao nhiêu hiền sĩ từ lâu ẩn dật]
NAY ĐẾN KỲ ĐẾN TRẬN QUY HỒI [nay đến kỳ đến trận phải quy hồi]
ĐỂ MỪNG NGÀY CHÚA THÁNH LÊN NGÔI [để mừng ngày Thánh Chúa lên ngôi]
NGÀY KHAI HỘI CHÚA TÔI HIỆP MẶT [ngày khai hội chúa tôi gặp mặt]
MÁY THIÊN CƠ NHIỀU ĐIỀU TUYỆT MẬT [máy thiên cơ bao điều tuyệt mật]
NÊN TRẦN GIAN CÒN MẤT ĐÂU HAY [trần gian này còn mất ai hay]
AI ĐỨNG TRONG HÀNG NGŨ ANH TÀI [ai đứng trong hàng ngũ anh tài]
MỚI THẤU RÕ NGÀY MAI THẾ ĐÓ [mới thấu rõ ngày mai thế đó]
KHAI BÚT MINH ĐÔI LỜI TRẠNG TỎ [khai bút giải đôi lời Trạng Trình bày tỏ]
HỠI SĨ HIỀN PHÂN RÕ NGUỒN CƠN [hỡi sĩ hiền nguồn cơn hãy phân rõ]
NAY MÀN BA CHỦ CHỐNG KHẢI ĐỜN [Màn Ba nay Giáo Chủ chèo chống khải đời]
THEO SẮC LỆNH LINH SƠN KHẢI TẤU. [Trạng tôi theo sắc lịnh Linh Thứu Sơn, xin khải tấu.]
TRƯỚC LẠP ĐIỆN KHAI ĐĂNG CUNG MẪU [Trước điện khai đăng cung kỉnh Mẫu]
ĐỂ DIÊU TRÌ KIM MẪU GỒM THÂU [để Diêu Trì Kim Mẫu tóm gồm thâu]
LẬP VỊ CUNG CỬU NỮ ỨNG CHẦU [Cửu Vị Phật Mẫu Diêu Cung ứng chầu lập vị]
KHAI CỬU PHẨM ĐÁO ĐẦU LINH VỊ [đứng đầu linh vị chín phẩm đến khai]
TÒA CHƯƠNG GIÁO QUỐC HƯNG ẤN KÝ [Giáo Tòa Chương Quốc Hưng ấn ký]
HIỆP ÂM DƯƠNG LINH VỊ QUY NGÔI [hiệp hữu vô linh căn quy ngôi vị]
HIỆP CÀN KHÔN TỨ THÁNH PHẢN HỒI [Càn Khôn hiệp Tứ Thánh phản hồi]
CỬU TRÙNG DIỄN CHÚA TÔI KHAI HỘI [Cửu Trùng diễn Chúa Tôi khai hội]
ĐÃ MINH KHAI THIÊN NHÂN ĐỊA HỘI [Minh Thiên đã khai hội ba cõi Thiên Nhân Địa]
THIÊN ẤN MINH TRIỀU NỘI TẠI TRẦN." [Thiên Ấn Minh Thiên triều nội diễn tại trần.]
(Trích dẫn HƯNG QUỐC SỨ MỆNH PHỤNG HÀNH, hiệp thiên huyền nam của Bửu Linh Tự, Bửu Sơn Kỳ Hương, đã nhận thông điệp từ Huyền Không Thiên Thượng và gởi đến Đức Ngài vào ngày 30 tháng 4 năm Đinh Dậu (25/5/2017), lúc 9:30 sáng giờ VN.)
SƠN HÀ hay SƠN LIÊN là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. Chữ HÀ 荷 này có nghĩa là Sen, Liên Hoa cho nên hiệu SƠN HÀ cũng là SƠN LIÊN là vì lý do như vậy. HƯNG QUỐC hay QUỐC HƯNG là thế danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. BỬU LINH TỰ là tên của một thánh đàn Bửu Sơn Kỳ Hương tại Cà Mau mà Đức Ngài Ngôi Hai Trào Tam chưa từng quen biết trước thời điểm nhận bài. MINH THIÊN hay THIÊN MINH là danh xưng của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế phàm. NGỌC ĐẾ MINH MINH là nói Đấng Chí Tôn Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. Đức Ngài Huyền Thiên cũng thường xưng danh là MINH MINH THƯỢNG ĐẾ, đặc biệt là khi giáng đàn Thiên Đạo của Đài Loan là một nhánh đạo do Đức Tế Công Hoạt Phật, phụ tá của Huyền Thiên, hoằng hóa. NAM THIÊN MÔN là nói vùng trời miền Tây Nam Việt Nam. TRẠNG là nói TRẠNG TRÌNH, Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm. LINH SƠN là nói Linh Thứu Sơn nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng chuyển pháp luân. KHAI BÚT MINH ĐÔI LỜI TRẠNG TỎ... THEO SẮC LỆNH LINH SƠN KHẢI TẤU là nói Trạng Trình theo sắc lịnh của Đức Phật Tổ Thích Ca xuống điển chấp bút để bài tỏ cơ thiên. TỨ THÁNH trong đoạn sấm ký trên không có ý nói bốn vị thánh của tín ngưỡng nhân gian miền Bắc Việt là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh Thánh Mẫu mà muốn nói tới Tứ Thánh đã mượn xác của một cậu bé 9 tuổi để ra sấm giảng vào đầu thế kỷ 20 tại miền Tây Nam Việt Nam. CÀN KHÔN HIỆP là nói Càn Đế (Thiên Cha) hiệp với Khôn Đế (Thiên Mẹ). [Chú giải của người soạn.]
"GIẢI THÍCH TỪNG CÂU KHỎI LẠC LẦM [giải thích từng câu để khỏi lạc lầm]
ĐÁP LỜI: HƯNG QUỐC ĐẠO HUYỀN THÂM [lời giải đáp: Hưng Quốc mở đạo huyền thâm]
HUYỀN THIÊN ĐỊNH ÁNG NHIỀU CƠ HÓA [Sách Trời Huyền Thiên định nhiều cơ giáo hóa]
CƠ PHÁP PHẬT TIÊN QUYẾT XUẤT TẦM. [Phật Tiên xuất thế cơ pháp phải quyết truy tầm]
[Khoán thủ: Giải Đáp Huyền Cơ. Hưng Quốc Huyền Thiên.]
XUẤT TẦM KHOÁN THỦ THUYẾT BÀI THI [xuất tầm khoán thủ thuyết thi bài]
CƠ BÚT THIÊN OAI ÁNG ĐỊNH KỲ [kỳ định cơ bút áng Thiên Oai]
HƯƠNG BỬU ĐẠO ĐÀN MINH CHIẾU ĐIỂN [điển Chiếu Minh đạo đàn Hương Bửu]
SƠN LIÊN ĐẾ ĐÁP RÕ HUYỀN VI. [huyền vi Ngọc Đế Sơn Liên khải]
[Khoán thủ: Xuất Cơ Hương Sơn (xuất cơ Bửu Sơn Kỳ Hương). Khoán ẩn: Thiên Minh Sơn Liên Đế Đáp Rõ.]
HUYỀN VI GIÁO ĐẠO ĐẤNG TỪ BI [Đấng Từ Bi giáo đạo huyền vi]
BÁC ÁI DIỆU VI QUYẾT LUYỆN TRÌ [bác ái vi diệu quyết luyện trì ]
TAM THÁNH THIÊN TIÊN GIỜ ĐẶT ĐỊNH [Tam Thánh Thiên Tiên nay đặt định]
GIÁO NGÔN XUẤT THẾ RÕ TAM KỲ. [giáo ngôn xuất thế rõ Kỳ Ba]
[Khoán thủ: Huyền Vi Giáo Đạo Bác Ái Diệu Vi, Tam Thánh Thiên Tiên Giáo Ngôn Xuất Thế. Khoán ẩn: Huyền Thiên Xuất Thế Tam Kỳ.]
TAM KỲ THẾ ĐẠO HIỆP LÀM XONG [Đạo hiệp thế ba lần làm xong]
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG GỞI ĐẠI ĐỒNG [Giáo Đạo Nam Phương gởi đại đồng]
CHUẨN TÁNH THIÊN TIÊN HUỲNH BỬU ĐIỆN [chuẩn tánh Thiên Tiên Huỳnh Bửu Điện]
BÚT THẦN CƠ LƯỢC SÁCH HUYỀN KHÔNG. [bút thần sách lược cơ Huyền Không]
[Khoán thủ: Tam Giáo Chuẩn Bút.]
HUYỀN KHÔNG ÁNG ĐỊNH PHẨM TÒA CHƯƠNG [Sách Trời Huyền Không định phẩm]
VI DIỆU ĐẠO THIÊN HÉ LỘ ĐƯỜNG [Tòa Chương Thiên Đạo vi diệu hé lộ đường]
KỲ ĐỊNH NĂM NÀY TA PHỔ HÓA [kỳ định năm này Ta, Huyền Thiên, phổ hóa]
BA LẦN XUẤT ĐẾ ĐẠO MUÔN PHƯƠNG." [lần ba xuất Đế Đạo muôn phương]
[Khoán thủ: Huyền Vi Kỳ Ba. Khoán ẩn: Huyền Thiên Ta Phổ Hóa Đế Đạo Muôn Phương.]
(Trích dẫn GIẢI ĐÁP HUYỀN CƠ, thánh đàn Long Ẩn, tại Saint Louis, MO, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ đã nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng và chuyển đến Đức Ngài ngày 17 tháng 6 năm Đinh Dậu 2017.)
TAM THÁNH THIÊN TIÊN là nói ba ngôi Ngươn Thỉ Thiên Tôn, Đạo Đức Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn của Đạo Giáo. HUYỀN THIÊN XUẤT THẾ TAM KỲ là nói Huyền Thiên Thượng Đế xuất thế lần ba, tức là nói Trào Tam Xuất Thế. GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG GỞI ĐẠI ĐỒNG là nói Ngọc Đế gởi thông điệp đến quần chúng. TAM KỲ THẾ ĐẠO HIỆP LÀM XONG là nói Ngọc Đế đã nhiều lần huyền khải mình sẽ xuống thế ba lần trên đất nước Việt Nam, và nay đã thực hiện xong lời hứa đó. [Chú giải của người soạn.]
KỲ ĐỊNH NĂM NÀY là nói năm Đinh Dậu 2017 đã được định trước. TA là nói Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. ĐẾ ĐẠO là nói nền Đạo của Thượng Đế dựng lên trên đất nước Việt Nam, nói rõ hơn là nền Đại Đạo Cao Đài. BA LẦN XUẤT ĐẾ ĐẠO là nói Thượng Đế ba lần đầu thai xuống thế trên đất nước VN để mở đạo: lần thứ nhứt nhân thân là Ngôi Hai Trào Một Cao Đài Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu, lần thứ nhì nhân thân là Nhị Thiên Trào Hai Cao Đài Giáo Chủ Võ Văn Phẩm, lần thứ ba nhân thân là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc, Đức Thể Nguyên của Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên, Giáo Tông Hữu Vô của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. [Chú giải của người soạn.]
"MUÔN PHƯƠNG THẾ GIỚI ĐẠO ĐỒNG CHUNG [muôn phương thế giới chung cội Đạo]
VẠN KIẾP CÀN KHÔN ĐẾN CỬU TRÙNG [vạn kiếp đất trời Đạo nào cũng xuất từ CửuTrùng]
LINH ỨNG CƠ MẦU NỀN ĐẠO CẢ [cơ mầu linh ứng nay nền Đạo Lớn]
CĂN LÀNH ĐƯA CHUYỂN ĐẠO HUYỀN KHUNG. [do căn lành đưa chuyển Đạo Huyền Khung]
[Khoán thủ: Muôn Vạn Linh Căn]
HUYỀN KHUNG THIÊN ĐẠO ẤN HÀNH CHUNG [Huyền Khung ấn hành chung nền Thiên Đạo]
VI LƯỢNG HÀ SƠN ĐĂNG ĐẠI CHUNG [vô vi vô lượng Sơn Hà đèn lớn soi chung]
THIÊN ĐẠI KỲ HOA CƠ ĐẠI ĐẠO [là ông Thiên lớn cơ Đại Đạo trên đất nước Hoa Kỳ]
ĐẠO THẦY, ĐẠO MẪU ĐẠO ĐỒNG CHUNG. [Đạo Cha hay Đạo Mẹ cũng đồng cùng]
[Khoán thủ: Huyền Vi Thiên Đạo. Khóan ẩn: Huyền Thiên Hà Sơn Kỳ Hoa Đại Đạo.]
ĐỒNG CHUNG THẬP NHỊ ĐẠO THỜI QUÂN [đồng chung đạo 12 vị Thời Quân]
TÂM HẠNH PHƯỚC DUYÊN CHUYỂN PHÁP LUÂN [tâm hạnh phước duyên chuyển pháp luân]
TAM GIÁO PHẬT THIÊN TIÊN THÁNH CHÚNG [Phật Thiên, Tiên, Thánh chúng Tam giáo]
GIỚI CĂN TUỆ GỐC LÃO HỒNG QUÂN [lấy giới định tuệ làm gốc căn. Lời Lão Hồng Quân]
[Khoán thủ: Đồng Tâm Tam Giới (Thiên giới, Địa giới, Nhân giới đồng một mục tiêu). Khoán ẩn: Phật Thiên Gốc Lão Hồng Quân.]
HỒNG QUÂN LÃO TỔ TRỞ VỀ ĐÂY [Hồng Quân Lão Tổ trở về nơi đây đất Hoa Kỳ]
CHUNG ĐẠI THIÊN CƠ ĐẠO PHÁP NÀY [chung cơ Thiên Đạo Đại Pháp kỳ này, chính]
ĐẠI MỘC CHƠN TRUYỀN NGUYÊN CHÁNH THỂ [nhân thân Thầy Thập Tự chơn truyền]
CÀN THIÊN HUỲNH ĐẾ CHUYỂN TẦM XOAY." [Thiên Trời Huỳnh Đế chuyển xoay. Hãy tìm!]
LẬP ĐẠO MỚI THIÊN HOÀNG ỨNG CHUYỂN [Thiên Hoàng ứng chuyển lập Đạo mới]
BẮC ĐÔNG TÂY NAM QUỐC CHƠN TRUYỀN [khắp 4 phương ông Quốc chơn truyền]
ĐẠO SƠN KỲ HỢP KHẾ HUỲNH KHAI [khế hợp với đạo Bửu Sơn lập Thiên Khai Huỳnh Đạo]
DỰNG ĐẠO MỚI HOÀN CẦU RUNG CHUYỂN." [dựng đạo mới hoàn cầu rung chuyển.]
(Trích dẫn GIẢI ĐÁP HUYỀN CƠ, thánh đàn Long Ẩn, tại Saint Louis, MO, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ đã nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng và chuyển đến Đức Ngài ngày 17 tháng 6 năm Đinh Dậu 2017.)
NỀN ĐẠO CẢ, ĐẠO HUYỀN KHUNG, THIÊN ĐẠO đều là nói Cao Đài Đại Đạo, là Đại Đạo Huyền Khung, là Thiên Đạo Huyền Không. ĐẠO THẦY là nói nền Đạo của Thầy Thượng Đế khai mở còn ĐẠO MẪU là nói nền Đạo của Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn khai mở, tuy nói hai nhưng thực ra chỉ có một, là MỘT MẠCH ĐẠI ĐẠO của MỘT ĐẤNG CHÍ TÔN khai mở. SƠN HÀ hay SƠN LIÊN là đạo hiệu cuả Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. MỘC chiết tự gồm chữ BÁT dưới và chữ THẬP trên. Vì chữ BÁT đồng dạng với chữ NHÂN nên chữ BÁT được mượn để thay cho chữ NHÂN. Như vậy, chữ MỘC chiết tự thành chữ NHÂN THẬP tức là nói Thầy Nhân Thập. NGUYÊN 元 là đứng đầu, bắt đầu. CHÁNH THỂ ĐẠI MỘC là nói chính nhân thân (kim thân) của Thiên Lớn Nhân Thập, tức nói chính nhân thân Thầy Nhân Thập. ĐẠI MỘC CHƠN TRUYỀN NGUYÊN CHÁNH THỂ hay NGUYÊN CHÁNH THỂ ĐẠI MỘC CHƠN TRUYỀN là nói khởi đầu là chính nhân thân Thầy Thập Tự sẽ chơn truyền Thiên Đạo Đại Pháp kỳ này. LẬP ĐẠO MỚI THIÊN HOÀNG ỨNG CHUYỂN, BẮC ĐÔNG TÂY NAM QUỐC CHƠN TRUYỀN là nói Thiên Hoàng ứng chuyển lập ra một Đạo mới, tức nói Cao Đài Vô Vi Kỳ Ba Xuất Thế cũng là Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, và ông Quốc sẽ chơn truyền Thiên Đạo này khắp bốn phương. QUỐC là ông Đạo Quốc, ông Hà Hưng Quốc, thế danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Như vậy, ĐẠI MỘC CHƠN TRUYỀN và QUỐC CHƠN TRUYỀN là cùng nói về một vị Chủ Giáo, đó là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. ĐẠO SƠN KỲ HỢP KHẾ HUỲNH KHAI là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương khế hợp với Thiên Đạo Huyền Không hòa lập thành Thiên Khai Huỳnh Đạo Kỳ Ba Vô Vi. THIÊN HOÀNG là Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng. DỰNG ĐẠO MỚI là khai mở Thiên Đạo Huyền Không cũng là Đại Đạo Huyền Không. [Chú giải của người soạn.]
"NGÀY KHAI ẤN ĐẠO THIÊN SƠN BỬU [ngày khai Thiên Đạo ấn Bửu Sơn]
ĐỦ THẬP TAM ĐẠI ĐẲNG HUỲNH KỲ [Huỳnh Kỳ đủ đại đẳng Thập Tam tham dự]
GIỜ HIỆN HÌNH BÁT QUÁI ĐẠI THIÊN [giờ thì Bát Quái đã hiện hình]
THẬT LINH ỨNG ĐẮC TÂN THIÊN ĐẠO. [Đại Thiên linh ứng đắc tân Thiên Đạo]
GIAO CHIẾU CHỈ HỒNG HUỲNH THIÊN ĐẠI [giao chiếu chỉ Hồng Huỳnh hai Thiên Lớn]
ĐẠI LA THIÊN KIM ẤN TRONG TAY [Đại La Thiên kim ấn đã trong tay]
ĐIỆN KIM LOAN CHO ÁNG BINH PHÙ [Mẹ Vô Cực ban cho binh phù]
XOAY CHUYỂN THẾ KHẾ CƠ HIỆP ĐẠO." [để xoay chuyển thế gian hiệp Đạo]
(Trích dẫn GIẢI ĐÁP HUYỀN CƠ, thánh đàn Long Ẩn, tại Saint Louis, MO, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ đã nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng và chuyển đến Đức Ngài ngày 17 tháng 6 năm Đinh Dậu 2017.)
HỒNG là Hồng Hoa Liên, Nhị Nương Diêu Trì Cung, Tây Thiên Vương Mẫu. HUỲNH là Huỳnh Long, trung ương Huỳnh Đế. Hai vị "Thiên đại" đứng đầu Long Hoa Hội. KIM ẤN ĐẠI LA THIÊN là Kim Ấn của Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng, Càn Đế Bạch Ngọc Cung. KIM LOAN BINH PHÙ là binh phù của Kim Loan Điện, của Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Chí Tôn, Khôn Đế Diêu Trì Cung. [Chú giải của người soạn.]
"CHỌN NHÂN SỰ PHẬT THẦY THƯỜNG CHUYỂN [Phật Thầy thường chọn chuyển nhân sự]
TÂM TỊNH AN CHƠN TÁNH NHƯ NHƯ [tâm tịnh an chơn tánh như như]
PHÚC KIẾN LINH HUỆ TRÍ SÁNG LÀNH [trí sáng lành huệ linh phước thấy]
HIỆP ĐOÀN THỂ THÂN TAM THUẦN BIẾN. [tam thể thân thuần biến hiệp đoàn]
HỘI TIÊN THÁNH PHẬT THIÊNG LINH ỨNG [hội Tiên Thánh Phật linh thiêng ứng hóa]
GIÚP QUỐC HƯNG, HIỀN HỮU, ĐẠO ĐỒNG [giúp Quốc Hưng cùng hiền hữu đạo đồng]
KHAI CỬU ĐÀN KHIẾU ĐỈNH TÒA TAM [khai đàn đỉnh Cửu Thiên Tam Tòa kêu]
MỞ THIÊN ĐẠO TRUNG TÂM MỸ QUỐC. [mở Thiên Đạo tại Ca Li Mỹ Quốc]
CHI THỨ NHẤT VIỆT NAM CHỦ ĐẠO [Việt Nam chủ đạo chi thứ nhất]
HIỆP HOÀN CẦU NAM BẮC ĐÔNG TÂY [hiệp khắp hoàn cầu Nam Bắc Đông Tây]
PHẢI HÀNH Y ĐÚNG PHÁP ĐẠO THẦY [phải hành y đúng pháp đạo Thầy]
THÌ XUẤT THẾ LINH QUANG HÓA CHUYỂN." [linh quang chuyển hóa thì xuất thế]
(Trích dẫn GIẢI ĐÁP HUYỀN CƠ, thánh đàn Long Ẩn, tại Saint Louis, MO, hiệp thiên huyền nam Phương Vũ đã nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng và chuyển đến Đức Ngài ngày 17 tháng 6 năm Đinh Dậu 2017.)
QUỐC HƯNG là thế danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. KHAI CỬU ĐÀN KHIẾU ĐỈNH TÒA TAM, MỞ THIÊN ĐẠO TRUNG TÂM MỸ QUỐC là nói lúc khai đàn Cửu Trùng Thiên trên thượng đỉnh Đài Cao thì Tam Giáo Tòa ra lịnh hãy mở Thiên Đạo tại California, là trung tâm giao thương lớn nhất, của nước Mỹ. Huyền khải này đã đúng như sấm ký khải lộ. Thiên Đạo Huyền Không hoằng khai tại California ngày mùng 2 tháng 8 năm Đinh Dậu 2017 theo đúng huyền cơ của Thiên Thượng. PHẢI HÀNH Y ĐÚNG PHÁP ĐẠO THẦY là nói phải hành đúng y pháp đạo của Thầy Cao Đài Huyền Khung chơn truyền. Lời dặn dò này là hiển nhiên. Về mặt hiển giáo, Thiên Đạo Huyền Không chính là Cao Đài Vô Vi Trào Tam Xuất Thế và chính Thầy trở lại lần ba để mở đạo và khai giáo. Về mặt mật giáo, Đức Ngài tự thân nhận được bí pháp do Thầy Hồng Quân Thượng Tổ và Mẹ Diêu Trì chơn truyền từ cõi vô hình lúc tịnh tu trên núi Thổ Đầu Sơn. CHI THỨ NHẤT VIỆT NAM CHỦ ĐẠO HIỆP HOÀN CẦU NAM BẮC ĐÔNG TÂY là nói Thiên Đạo Huyền Không là chi đạo đầu tiên khai mở tại Hoa Kỳ và sẽ chịu trách nhiệm hoằng hóa khắp hoàn cầu ngày sau. [Chú giải của người soạn.]
"BỬU SÔNG THANH TỊNH KIẾN TIÊN BANG [thanh tịnh Phật Hà chứng cảnh tiên bồng]
SƠN XUẤT HUỲNH DANH HIỂN LỘ PHANG [xuống núi hiển lộ 1 phương danh Huỳnh Long]
KỲ THUYẾT QUI NGƯƠN CÙNG HIỆP NHỨT [kỳ thuyết qui nguyên cùng hiệp nhứt, trong]
HƯƠNG TRUNG QUỐC THỂ DỰNG TRƯỜNG AN. [Kỳ Hương ông Quốc dựng đạo tại Cali]
[Khoán thủ: Bửu Sơn Kỳ Hương]
BỬU SÔNG hay BẢO HÀ hay BẢO GIANG giống như nhau. Vì chữ Hà và chữ Giang đồng nghĩa chữ Sông còn chữ Bửu và chữ Bảo cùng một nghĩa là quy báu. BỬU hay BẢO là nói Vua hoặc Phật. Sấm ký đạo giáo chỉ nói Phật hoặc vua đạo không nói vua đời do đó hai chữ BỬU SÔNG là nói Phật Hà. BỬU SÔNG THANH TỊNH KIẾN TIÊN BANG là nói Phật Hà lúc tịnh tu trên núi được thấy cảnh giới siêu xuất thế gian. SƠN XUẤT HUỲNH DANH HIỂN LỘ PHANG là nói sau khi xuống núi (xuất sơn) thì danh đạo (huỳnh danh) hiển hách một phương. Ngoài nghĩa bạch văn, hai chữ "Huỳnh danh" còn ẩn huyền nghĩa sấm ký là "danh Huỳnh Long". TRƯỜNG AN là nói bang California của Hoa Kỳ. Đất nước Hoa Kỳ được Thiên Thượng ví là Đại Đường bên Trung Hoa xưa. Thời đó Trường An là trung tâm thương mại của thế giới. California của Hoa Kỳ là một trung tâm thương mại lớn nhất thế giới ngày nay nên được ví với Trường An. THỂ là nói nhân thân. QUỐC THỂ là nói nhân thân tên Quốc, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. [Chú giải của người soạn.]
BỬU SÔNG hay BẢO SÔNG hay BẢO GIANG hay BẢO HÀ còn là ám chỉ con sông nơi Thánh xuất. Bà Trúc Lâm Nương đã từng khải lộ về con sông này như sau: [Chú giải của người soạn.]
"ĐỐ AI BIẾT ĐƯỢC BẢO GIANG MÔN [Bảo Giang Môn đố ai biết được nơi đâu]
LÀ NƠI THÁNH CHÚA THIÊN TÔN ĐỊNH PHẬN [Thánh Chúa Thiên Tôn định phận từ lâu]
XUẤT GIANG MÔN HÓA GIANG MÔN [vừa xuất cửa sông lại chảy ngay vào cửa sông]
LY NƠI ĐÔNG THỔ XOAY VẦN TÂY PHƯƠNG" [lìa miền Đông chảy vòng qua hướng Tây]
(Trích dẫn thiên thơ của nữ sĩ Hồng Tâm Trúc Lâm Nương, 1950)
Con sông nào trên đất nước mà từ miền Đông (tức là từ nhánh của sông Cửu Long) mà chảy vòng về hướng Tây? Con sông nào mà hai "giang môn" lại nằm gần sát nhau và có địa hình phong thủy đặc biệt gì để xứng đáng được gọi "bảo giang môn"? Thưa con sông đó được chư vị Thiên Thượng khải lộ là con sông Hà Tiên (Trích dẫn sấm ký Bảo Giang Ký, thánh đàn Long Ẩn, St Louis, MO, 20/9/2019, Giáo Hội Trường Thiên). Chư vị cho biết con sông Vàm Nao nối liền hai sông Tiền và Hậu trung chuyển khí mạch Cửu Long đưa về sông Châu Đốc, rồi chảy vào kinh Vĩnh Tế, rồi tới sông Giang Thành, rồi về tới Đông Hồ, rồi chảy vào sông Hà Tiên, cuối cùng chảy ra vịnh Thái Lan. Nơi tiếp giáp Đông Hồ và đầu vào của sông Hà Tiên là nơi "xuất giang môn" và đầu cuối của sông Hà Tiên tiếp giáp với Vịnh Thái Lan là nơi "hóa giang môn". Vì hai nơi chỉ cách nhau với khoảng cách rất ngắn, trên dưới một cây số, nên mới thấy điểm nhấn đặc biệt "xuất giang môn hóa giang môn". Tại hai nơi giang môn xuất hóa có voi chầu hổ phục, sơn long thủy long quấn quít hữu tình, có voi đàn hai bên ngậm đuôi nhau chầu về, một bên kéo dài tận Hòn Chông huyện Kiên Lương còn một bên kéo dài qua Tà Lơn tới Thái Lan và xa hơn. Hà Tiên cũng là nơi giao nhau (chữ thập) của sơn long Bắc Nam và sơn long Đông Tây, cà hai đều bắc nguồn từ Thanh Tạng. Vì những lý do này mà giang môn vùng Hà Tiên được gọi là Bảo Giang Môn và được Thánh Chúa Thiên Tôn chọn là vùng đất để xuống thế. Vùng đất Hà Tiên này cũng được huyền khải từ lâu là "Hà Giang Thánh xuất tấn phong tôi hiền". Theo thiên thơ đã được ghi chép lại thì Hà Giang chính là Hà Tiên. (Trích dẫn Đại Đạo Luận, trang 41). Sấm ký về Bảo Giang và Bảo Giang Môn sẽ được trình bày trong đề mục 8. Sấm Ký Bảo Giang Môn Nơi Trào Tam Xuất Thế. [Chú giải của người soạn.]
Nhưng chữ BẢO còn chỉ Vua hoặc Phật cho nên chữ BẢO HÀ còn có ý ám chỉ nhân thân chứ không phải chỉ nói tới một con sông quý. Đoạn sấm ký theo sau của Trúc Lâm Nương làm rõ điều này. [Chú giải của người soạn.]
"LẠC HỒNG RỠ RỠ CHỐN TRIỀU CA [rỡ rỡ chốn triều ca đất Việt]
MỚI BIẾT NHÀ NAM CÓ BẢO HÀ [mới biết nhà Nam có Phật Hà.]
XÍCH TỬ RA ĐỜI AN VẠN QUỐC [đứa con trong vở tuồng ra đời để an vạn quốc]
HÀO QUANG CHÓI RẠNG KHẮP GẦN XA." [hào quang chói rạng khắp gần xa.]
(Trích dẫn thiên thơ của nữ sĩ Hồng Tâm Trúc Lâm Nương, 1950)
XÍCH 出 này còn đọc là Xuất hay Xúy có nghĩa là "một đoạn trong vở tuồng". XÍCH TỬ nghĩa là là đứa con ra đời hoặc đóng vai trong vở tuồng. BẢO HÀ XÍCH TỬ RA ĐỜI AN VẠN QUỐC là nói Phật Hà (Bảo Hà), đứa con đóng vai một đoạn trong vở tuồng của Bạch Ngọc Cung, ra đời để mang nền Đại Đạo rao truyền tạo an bình cho thế giới. [Chú giải của người soạn.]
Rõ ràng ba chữ BẢO HÀ QUỐC được khoán ẩn trong đoạn sấm ký trên của bà Trúc Lâm Nương là nói về nhân vật chứ không nói con sông, và nhân vật đó chính là huyền khải về Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc, nhân vật xuất sinh tại vùng đất Bảo Giang Môn Hà Tiên. Nên nhớ rằng Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam xuống trần "tạm mượn" nhân thân này, hay nói trang trọng hơn là kim thân này, để thực hiện công cuộc của Trào Tam. Vì nhân thân này có tên nên tên được khải lộ nhưng nhân thân với cái tên thế gian dính liền không phải là Ngôi Hai Trào Tam. Cái linh thể bên trong nhân thân mới là Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. [Chú giải của người soạn.]
"BẠCH NGỌC QUY KHỐI HIỆP MỘT BẦU [Bạch Ngọc Cung quy khối hiệp một bầu hiệp]
SĨ MINH GIÁO CHÚNG NHỮ NAM LẦU [Bạch Sĩ Ngọc Minh giáo chúng tại Nam Lầu]
TIÊN KHAI ĐẠO CẢ VẦY LONG HỘI [trước tiên khai Đại Đạo vầy Long Hoa Hội]
SANH THẾ PHƯƠNG NAM ĐẮC LỘ CẦU." [Nam Phương được thế mở ra sinh lộ mong cầu]
[Khoán từng cột dọc 1 chữ, 1 chữ, 2 chữ, 3 chữ: Bạch Sĩ Tiên Sanh, Ngọc Minh Khai Thế, Quy Khối Giáo Chúng, Hiệp Một Bầu Nhữ Nam Lầu Vầy Long Hội Đắc Lộ Cầu (đạt được con đường mong đợi).]
(Trích dẫn LỊCH SỬ LONG HOA ĐẠI ĐẠO, bài Khuyến Tầm Nẻo Thiện. Đàn cơ ngày 15 tháng 7 năm Bính Thìn 1976. Bản chép chính được cố TS Lê Trung Trực lưu giữ, bản sao do Lưu Viễn phổ biến.)
NGỌC MINH hay MINH THIÊN hay HUYỀN MINH là đạo hiệu của hóa thân Huyền Thiên dưới thế. NHỮ là danh xưng ngôi thứ hai ... anh, chị, em, mày... MỘT BẦU NHỮ là nói Anh, chị, em một bầu tức là nói đồng bào. BẠCH NGỌC QUY KHỐI HIỆP MỘT BẦU là nói Bạch Ngọc Thiên Cung sẽ quy các giáo thành một khối. SĨ MINH GIÁO CHÚNG NHỮ NAM LẦU là nói ông Bạch Sĩ Ngọc Minh sẽ giáo chúng tại Nam Lầu (Thánh Tòa đặt tại miền Nam nước Việt). TIÊN KHAI ĐẠO CẢ VẦY LONG HỘI là nói trước tiên khai Đại Đạo (Đạo Cả) để tuyển chọn người hiền lập Long Hoa Hội. SANH THẾ PHƯƠNG NAM ĐẮC LỘ CẦU hay PHƯƠNG NAM ĐẮC THẾ SINH LỘ CẦU là nói Phương Nam được cuộc thế mở ra sinh lộ mong cầu. Với các chữ khoán trong đoạn sấm ký trên thì rõ ràng xác quyết Bạch Y Tiên Sinh chính là Ngọc Minh, hóa thân của Huyền Thiên dưới thế, tức là nói Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Như vậy câu "có ông Bạch Sĩ điều hòa sớm mai" trong Sấm Trạng cũng được giải mã thông qua đoạn sấm ký này. [Chú giải của người soạn.]
"NAM BANG NHẤT SĨ HIỆP ANH HÙNG [một trí sĩ Nam Bang hiệp được anh hùng]
QUỐC ĐỘ HUỲNH TÔNG ĐẮC CỬU TRÙNG [Quốc độ Huỳnh Tông đắc ngôi vị Cửu Trùng]
CÔNG LÝ TIÊU HÀ QUI NHẤT THỐNG [công lý sụp đổ Hà ra quy nhứt thống, người]
KHANH THÔNG ĐẠO CẢ HIỆP TRÙNG HƯNG." [thông Đạo Lớn hiệp với Hưng dựng lại]
[Khoán: Quốc Hà Hưng]
(Trích dẫn LỊCH SỬ LONG HOA ĐẠI ĐẠO, bài Khuyến Tầm Nẻo Thiện. Đàn cơ ngày 15 tháng 7 năm Bính Thìn 1976. Bản chép chính được cố TS Lê Trung Trực lưu giữ, bản sao do Lưu Viễn phổ biến.)
HÀ HƯNG QUỐC là tên họ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. NHẤT SĨ là nói BẠCH Y TIÊN SANH NGỌC MINH, trong đoạn sấm ký trước, cũng là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Ba chữ khoán HÀ HƯNG QUỐC đã khải lộ rõ ràng tên họ của NHẤT SĨ cũng là BẠCH Y TIÊN SANH. NAM BANG hay HỚN BANG là nói nước Việt. QUỐC ĐỘ HUỲNH TÔNG ĐẮC CỬU TRÙNG là nói ông Quốc độ cho tông phái Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba đắc được ngôi vị nơi Cửu Trùng. CÔNG LÝ TIÊU là nói công lý sụp đổ. Đa số quốc gia trên thế giới ngày nay đều xây dựng hệ thống trị nước an dân trên nền tảng pháp luật thượng tôn. Nhưng đứng trước những thay đổi cực kỳ nhanh chóng và chủ nghĩa thực dụng ngày càng trở nên bá đạo hơn, nền tảng pháp luật thượng tôn này đã không thể trụ vững được nữa nên nói là "công lý tiêu". CÔNG LÝ TIÊU HÀ QUY NHỨT THỐNG là nói khi nền tảng pháp luật thượng tôn không còn khả năng trị nước an dân nữa thì lúc đó ông Hà mới kêu gọi mọi người quay về với "văn hóa Đại Đạo Nam Phương" để tái lập an bình, tức là xây dựng nền tảng "đức trị" của tương lai. Nhiều người khi đọc câu sấm ký này giải nghĩa rằng xã hội phải áp dụng "Công Lý Tiêu Hà" để quy nhứt thống. Tiêu Hà là nhân vật thời Hán Lưu Bang. Những nguyên tắc thời xa xưa ấy không thể đáp ứng như cầu của kỷ nguyên này và luật pháp Tiêu Hà khi xưa lại càng không thể sánh với luật pháp thời nay, thời mà mọi cơ cấu tổ chức và tương tác đều cực kỳ tinh vi, cho nên suy diễn câu này là nói đến việc áp dụng "công Lý Tiêu Hà" thì quá xa rời hiện thực. [Chú giải của người soạn.]
"PHÂN CHO RÕ NẺO ĐƯỜNG TÀ CHÁNH [nẻo tà chánh cân phân tỏ rõ]
TỪ LÂU NAY LẬP HẠNH SỬA TRAU [bấy lâu nay lập hạnh sửa trau]
NÊN SANH MỘT ĐẤNG ANH HÀO [nên sanh ra một đấng anh hào]
HAY HIỀN NHƠN CŨNG ĐƯỢC VÀO HỘI THI [hiền nhơn chủng hội thi được vào]
LO CHO KỊP ĐẾN KỲ GÀ GÁY [2029] [mau kịp kỳ gà kỷ lai đáo]
KIẾN PHẬT VƯƠNG VẠN ĐẠI AN VUI." [kiến Vương Phật vạn đời vui đạo]
[Khoán: Được Vào Hội Thi, Gà Gáy 2029 Kiến Phật Vương.]
(Trích dẫn LỊCH SỬ LONG HOA ĐẠI ĐẠO, bài Khuyến Tầm Nẻo Thiện. Đàn cơ ngày 15 tháng 7 năm Bính Thìn 1976. Bản chép chính được cố TS Lê Trung Trực lưu giữ, bản sao do Lưu Viễn phổ biến.)
"ĐÊM NAY XUỐNG LÃO VỀ SƠN THẤT [Lão về sơn thất đêm nay]
THẤY TRÊN NGAI ĐỨC PHẬT TỌA THIỀN [thấy Đức Thiên Phật trên ngai tọa thiền]
LÃO THƯA NGÀI ĐÁP LỜI LIỀN [Lão thưa Ngài đáp lời liền]
BAO GIỜ THIÊN ĐẠO ĐẮC LIÊN HOA THUYỀN [chừng nào Thiên Đạo được thuyền Hà Tiên]
VÀI BA NĂM KHẮP MIỀN THẾ GIỚI [tương lai thế giới khắp miền]
NGẮN HAY DÀI CHỚ ĐỢI KẺO NGUY [không lâu sẽ thấy nhiều phiền lắm nguy]
HÙM THIÊNG HƯNG QUỐC TAM UY [hùm thiêng Hưng Quốc tam uy]
THIÊN LINH GIÁNG THỂ ĐỘ TRÌ TRIỀU THIÊN [thiên linh giáng thể độ trì triều thiên]
KHAI ĐẠO QUỐC LINH HUYỀN THIÊN ĐẠO [khai đạo Quốc Huyền Thiên linh đạo]
SẤM CƠ TRUYỀN SÁNG TẠO TÂN DÂN [sấm truyền cơ sáng tạo Tân Dân]
HƠN NĂM TỶ CHẾT DẦN DẦN [hơn năm tỷ tán tiêu dần, Thánh Đức]
THƯỢNG NGƯƠN THÁNH ĐỨC THÁNH THẦN HIỀN DÂN [còn lại Thánh Thần hiền dân]
PHẬT PHÁN LÃO PHẢI CẦN MẠNH MẼ." [Phật phán Lão phải cần mạnh mẽ]
(Trích dẫn sấm cơ ông Đạo Tuấn, nhận điển chấp bút và gởi đến Đức Ngài Hoàng Di Thiên ngày 16 tháng 12 năm 2017 lúc 13:05 trưa, giờ California)
BAO GIỜ THIÊN ĐẠO ĐẮC LIÊN HOA THUYỀN là nói chừng nào Thiên Đạo được thuyền của ông Hà. LIÊN HOA hay HOA LIÊN là nói chữ 荷 này, phát âm HÀ hoặc HẠ nghĩa là Cây Sen tức Hoa Liên. [Chú giải của người soạn.]
"THẦY ĐỘ TOÀN THỂ GIÁO ĐỒ [Thầy độ toàn thể giáo đồ]
THẦY TRUYỀN ĐẠO PHÁP NAM MÔ DI ĐÀ... [Thầy truyền đạo pháp Nam Mô Di Đà]
TẠI SAO PHẢI BÀN QUA QUỐC SỰ [Tại sao phải bàn qua việc Quốc và Đại Đạo]
ĐẠI ĐẠO LÀ CHÚA NGỰ QUỐC HỒN [vì hồn Quốc là Đấng Thiên Chúa Trên Cao ngự]
NGHĨA DẠY AI MUỐN TRƯỜNG TỒN [nghĩa là dạy ai muốn trường tồn thì đừng mất]
QUỐC GIA ĐỪNG MẤT HƯƠNG THÔN VỮNG BỀN [ông Quốc hươngthôn vững bền]
QUỐC VÀ NƯỚC HAI BÊN CHUNG MỘT [Quốc và Nước Nhà hai bên chung một]
TRUNG CANG ĐỀU QUỐC CỘT KHÍ THIÊN [Thiên Quốc là khí Thiên cột Quốc trung cang]
NƯỚC CÓ ĐẠO QUỐC MỚI YÊN [Nước Nhà có ông Đạo Quốc mới an]
NƯỚC MÀ KHÔNG ĐẠO LÚT QUYỀN SÁT SANH [Nước Nhà không Đạo lan tràn sát sanh]
NƯỚC NHÀ MẤT DÂN LÀNH TỬ THỦ [Nước Nhà mất Chính dân lành tử thủ]
CHỜ ĐẾN NGÀY QUỶ KHÓC MA RÊN [chờ cho đến ngày quỷ khóc ma rên]
HÙM THIÊNG HƯNG QUỐC ĐỨNG LÊN [hùm thiêng Hưng Quốc đứng lên]
GIÁO ĐỒ KẾT HỢP DỰNG NỀN TÒA SEN." [kết hợp giáo đồ tòa sen nền dựng]
(Trích dẫn quyển sấm ký ĐƯỜNG VỀ PHẬT QUỐC, xb 2004, Thiên Ánh Đạo Vàng.)
Các chữ QUỐC, QUỐC GIA trong đoạn sấm ký trên đều hàm hai nghĩa: (1) là đất nước và (2) là cá nhân người tên Quốc, như câu đã nói "Quốc và Nước hai bên chung một", xét cả hai góc độ mới hiểu đúng hết ý sấm cơ. [Chú giải của người soạn.]
"CÁC LINH HUỆ CÙNG NHAU KÍP MỞ [các huệ linh cùng nhau mở gấp]
MAU HỒI TRI ĐẠO QUỐC LIÊN HOA [mau hồi tri ông Đạo Quốc Hà]
ĐỨC CÔNG ĐẠO QUỐC KHAI MINH [đức ông Đạo Quốc khai minh]
CỨU SINH NHÂN LOẠI CỨU TÂM LINH NGƯỜI...[cứu sinh nhân loại cứu tâm linh người]
LIÊN HOA LINH TỬ ĐỒNG BÀO [ông Hà linh tử đồng bào, cùng xây Đạo Quốc]
ĐỒNG XÂY ĐẠO QUỐC DỰNG TRÀO THƯỢNG NGƯƠN." [dựng trào thượng ngươn]
(Trích dẫn bài sấm ký TRUYỀN CÁC ANH EM LINH HUỆ, quyển ĐƯỜNG VỀ PHẬT QUỐC, Thiên Ánh Đạo Vàng, trang 26-44, xb tại California, năm 2004.)
LIÊN HOA hay HOA LIÊN là nói chữ 荷 này, phát âm HÀ hoặc HẠ nghĩa là Cây Sen tức Hoa Liên. Các chữ ĐẠO QUỐC trong đoạn sấm ký này đều là nói ông Đạo tên Quốc ngoại trừ ở câu cuối ĐỒNG XÂY ĐẠO QUỐC DỰNG TRÀO THƯỢNG NGƯƠN là nói đồng xây nền Quốc Khách Đại Đạo hay chính xác hơn là Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. CÔNG là ông. ĐỨC CÔNG ĐẠO QUỐC là đức ông Đạo Quốc. [Chú giải của người soạn.]
"PHÁP TÂM ĐẠO QUỐC THIỆN TỪ [pháp tâm Đạo Quốc thiện từ]
TOÀN DÂN TRUYỀN LỊNH CHƠN SƯ RA ĐỜI...[báo cho dân biết Chơn Sư ra đời]
VIỆT NAM ĐẠO QUỐC NHƯ LAI [Việt Nam Đạo Quốc Như Lai]
ĐẠO ĐỒNG BÌNH ĐẲNG ĐỨC TÀI VÔ VI [đạo đồng bình đẳng đức tài vô vi]
CUỘC CHUYỂN THẾ VÔ VI KỲ VĨ." [vô vi chuyển thế cuộc ngoạn mục]
(Trích dẫn bài sấm ký TRUYỀN CÁC ANH EM LINH HUỆ, quyển ĐƯỜNG VỀ PHẬT QUỐC, Thiên Ánh Đạo Vàng, trang 26-44, xb tại California, năm 2004.)
ĐẠO QUỐC CHƠN SƯ là nói vị chơn sư gọi nôm na theo kiểu dân miền Tây Nam Bộ là ông Đạo Quốc, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam Hà Hưng Quốc. ĐẠO ĐỒNG BÌNH ĐẲNG là nói tánh cách giao tiếp rất "bình dân" của Đức Ngài với tất cả đạo đồng. ĐỨC TÀI VÔ VI là muốn nhấn mạnh đức tài của Đức Ngài trong cõi vô hình, một linh hồn già đã trải qua vô lượng kiếp chứ không phải đức tài chỉ trong một kiếp này, vì thế Đức Ngài mới được xưng tán là Như Lai, là Thiên Tôn, là Chơn Sư. Hiển nhiên là phải như vậy vì "đức tài vô vi" chính là nói linh thể trong vỏ bọc xác thịt tên Hà Hưng Quốc, là nói Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam, là nói Huyền Thiên xuống thế mượn nhân thân. [Chú giải của người soạn.]
"ĐẠO QUỐC NAY PHẢI SIÊU TÔN GIÁO [Đạo Nam Phương ngày nay siêu tôn giáo]
CÙNG TÔN GIÁO LẬP ĐẠO QUỐC CHUNG [liên giáo thuyền chung lập Đạo Nước Nhà]
Á ÂU HÌNH TƯỚNG ĐẠI HÙNG [bậc đại hùng hiện tướng nước Tây Ta]
SÁM HỐI LẬP ĐỨC MỚI CÙNG LINH THIÊNG [sám hối lập đức cùng đấng Thiêng Linh Cha]
KỲ NÀY ĐẠO QUỐC LINH QUANG [linh quang hóa thân xuống thế Đạo Quốc Kỳ Ba]
ĐỒNG TU ĐỒNG ĐẮC HÀO QUANG QUỐC HỒN." [Quốc hồn phóng quang độ đồng tu đắc]
(Trích dẫn bài sấm ký TRUYỀN CÁC ANH EM LINH HUỆ, quyển ĐƯỜNG VỀ PHẬT QUỐC, Thiên Ánh Đạo Vàng, trang 26-44, xb tại California, năm 2004.)
Với những chữ ĐẠO QUỐC SIÊU TÔN GIÁO, LẬP ĐẠO QUỐC CHUNG thì rõ ràng hai chữ ĐẠO QUỐC không nói về nhân thân của Đức Ngài nữa mà nói về tổ chức tôn giáo của Đức Ngài, tức nói QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO, nói THIÊN ĐẠO HUYỀN KHÔNG, nói HỘI THÁNH GIÁO HỘI TRƯỜNG THIÊN, nói THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO VÔ VI KỲ BA, là "đạo nhà" khai mở và hoằng hóa nơi Phương Tây đất khách. Với những chữ HÀO QUANG QUỐC HỒN thì lại nói linh thể trong nhân thân ông Đạo Quốc. LINH QUANG ĐẠO QUỐC là nói chiết linh quang xuống thế hiện thân là ông Đạo Quốc. [Chú giải của người soạn.]
"VIỆT NAM ĐẠO QUỐC THIÊN SINH [ông đạo Thiên Quốc đất Việt Nam sinh]
DIỆT TÀ TIÊU ÁC SÓNG KÌNH KHẮP NƠI...[khắp nơi sóng kình]
KỲ BA ĐÃI LỌC SƠN HÀ [ tiêu ác diệt tà ông đạo Sơn Hà đãi lọc Kỳ Ba]
ĐẠO NHÀ ĐẠO QUỐC KHAI TÒA LIÊN HOA...[ông đạo Quốc Hà khai tòa Đại Đạo]
NAM MÔ DÂN TỘC PHẬT TIÊN [dân tộc nam mô Phật Tiên]
BẢO GIANG XUẤT HIỆN ĐỨC THIÊN VUA HÙNG [Phật Hà xuất hiện là Đức Thiên Vua Hùng]
PHẬT VƯƠNG ĐẠO SỬ KHÔNG CÙNG [Vương Phật đạo sử không cùng]
TỨ KỲ PHỔ ĐỘ HUYỀN KHUNG PHẬT TRUYỀN [Tứ Kỳ phổ độ Huyền Khung Phật truyền]
SEN KINH PHẬT NHẬP LINH THIỀN [kinh Phật Hà nhập linh thiền, gọi kêu sanh chúng]
GỌI KÊU SANH CHÚNG VƯỢT THUYỀN ĐỨC CÔNG." [lên thuyền Đức Ông]
(Trích dẫn bài sấm ký TRUYỀN CÁC ANH EM LINH HUỆ, quyển ĐƯỜNG VỀ PHẬT QUỐC, Thiên Ánh Đạo Vàng, trang 26-44, xb tại California, năm 2004.)
THIÊN QUỐC hay THIÊN BÌNH TÂN QUỐC là thiên danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. SƠN HÀ hay SƠN LIÊN là đạo hiệu của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam.
LIÊN HOA, SEN là nói chữ 荷 này, phát âm HÀ hoặc HẠ nghĩa là Sen tức Hoa Liên. GIANG đồng với HÀ nghĩa là Sông. Vì thế, BẢO GIANG cũng là BẢO HÀ. Chữ BẢO là nói Phật hay Vua. Vì thế, với nghĩa lý đạo, chữ BẢO GIANG hay BẢO HÀ trong đoạn sấm ký này là muốn nói chữ Phật Hà. BẢO GIANG XUẤT HIỆN ĐỨC THIÊN là nói vùng đất Bảo Giang xuất hiện Đức Thiên Cao và đồng thời cũng là nói Đức Cao Thiên Huyền Khung Thượng Đế thiện thân là Phật Hà. ĐỨC THIÊN VUA HÙNG là nói Thượng Đế khi xưa có một lần hóa thân xuống thế trên đất nước Việt Nam chính là Lạc Long Quân, Đức Tổ Vua Hùng. PHẬT VƯƠNG ĐẠO SỬ KHÔNG CÙNG là nói Phật Vương Di Lạc xuống thế kỳ ba này cũng chính là Quốc Tổ Lạc Long khi xưa. Nói một cách khác, Đức Tổ Lạc Long Quân và Di Lạc Phật Vương là từ một nguồn linh quang hóa thân xuống thế ở những giai đoạn lịch sử khác nhau để thực hiện những sứ mạng khác nhau. Thí dụ như Đức Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế đã từng chiết thân xuống thế vào thời nhà Trụ là Thái Sư Văn Trọng. Sau khi bỏ xác hồi thiên là Huyền Thiên Quân, chưởng quản cõi Huỳnh Thiên, ngự nơi Tuyệt Khổ Cung cũng là tổng đàn của Lôi Bộ (là một cơ quan hành pháp quan trọng gìn giữ luật Thiên Điều Tam Giới được cân bằng, nghiêm ngặt trong vòng xoay của luân hồi nhân quả, hòa ái công bình), được người đời kính bái cầu nguyện là Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn. (Trích dẫn cuốn Cửu Thiên Toàn Chí). Đạo sử là một dòng chảy vô cùng tận, phải nhìn bằng con mắt vô vi mới thấu hiểu. HUYỀN KHUNG PHẬT là nói Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế. Kinh sách Phật giáo xứ Tích Lan có nói tới Hắc Bì Phật Tổ, đó chính là Đức Ngài Huyền Thiên Thượng Đế dưới danh xưng Phật Tổ. Đức Vô Cực Huyền Thiên Thượng Đế cũng đã từng giáng ngự tại chánh điện chùa Đạo Quang tại Garland, Texsas, vào năm 2005 và hiện linh ảnh là Hắc Bì Phật Tổ giảng pháp cho Bát Nương Di Hoa Kim Hải lúc bà còn tại thế. HUYỀN KHUNG PHẬT TRUYỀN hay PHẬT HUYỀN KHUNG TRUYỀN là nói Huyền Khung Thượng Đế hoá thân xuống thế giáo truyền Phật đạo trong kỳ ba này. ĐỨC CÔNG không có ý nói công đức mà là nói Đức Ông, vì chữ CÔNG là chữ ÔNG (ví dụ như chữ Quan Công, ông Quan Vũ). GỌI KÊU SANH CHÚNG VƯỢT THUYỀN ĐỨC CÔNG là nói Đức Ông gọi kêu sanh chúng muốn vượt sóng thì lên thuyền Đức Ông Hoàng Di Thiên, Ngôi Hai Trào Tam Xuất Thế Kỳ Ba. [Chú giải của người soạn.]
TAM KHAI là ba trào Thượng Đế hóa thân xuống thế tại Việt Nam để dạy đạo buổi hạ ngươn tận diệt. TỨ CHUYỂN là bốn lần Thượng Đế chuyển thế, một lần xuống thế tại Phương Tây (chúa Jesus Ngôi Hai Tây Phương Ki Tô Giáo Chủ) và ba lần cuống thế tại Việt Nam; Trào Một Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Văn Chiêu, Trào Hai Nhị Thiên Giáo Chủ Vỏ Văn Phẩm, Trào Ba Hoàng Di Thiên Hà Hưng Quốc. KỲ BA là nói lần thứ ba Thượng Đế xuống thế, là nói Trào Tam Xuất Thế. [Chú giải của người soạn.]
“NGỌC NGỌC TRÙNG LỘ BẠCH VÂN ĐANG [mây trắng bước lên Ngọc Thượng đang]
HOÀNG ĐẾ HỒI LAI TÁ QUỐC HOÀNG [Đế Hoàng trở lại tá xác Quốc, Thiên Di Hoàng]
THƯỢNG THƯỢNG MINH MINH HÀ CHI QUỐC [bởi thế Quốc Hà minh minh thượng thượng]
ĐẾ ĐẾ VẬN HÀNH GIẢI SUY NAN [lớp lớp thần tôn vận hành để giải cứu nhân loại suy nan]
TỐI THƯỢNG VÔ KHÔNG BÀY SẮP CUỘC [Tối Thượng Hư Không Vô Cực bày sắp cuộc]
CAO CAO ÂM DIỆU CHIẾU CÔNG NĂNG [hỡi ơi ântrạch côngnăng diệuâm chiếuphá vôminh]
THƯỢNG THIÊN HOÀNG NGỌC TRÙNG LAI PHƯỚC [NgọcHoàngTh.Thượng trùnglaiphước]
CÕI CÕI HƯ VÔ DỰNG BỨC MÀN." [bao bức màn che các cõi hư không nào ai thấy được]
[Khoán thủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tối Cao Thượng Cõi. Khoán chữ thứ hai: Ngọc Đế Thượng Đế Tối Cao Thiên Cõi.]
(Đàn giờ Mão ngày 19 tháng 12 năm Đinh Dậu (4/2/2017). Thánh Đàn Nam Thành, Sài Gòn, Việt Nam, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên. Tinh hoa hiệp thiên Kim Ngọc Thanh Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
NGỌC ĐẾ TRÙNG LỘ BẠCH VÂN ĐANG nghĩa đen là Ngọc Đế đang bước lên đường mây; nhưng sấm ký còn ẩn ý khác, là nói Trạng Trình (Bạch Vân) đang dọn đường cho Ngọc Đế để HOÀNG ĐẾ HỒI LAI TÁ QUỐC HOÀNG tức để Ngọc Hoàng Thượng Đế trở lại thế gian tá xác phàm của ông Quốc Hoàng Di Thiên. CHI là Chưng; chữ nối liền hai chữ đứng trước và sau. HÀ CHI QUỐC là nói "bởi chưng Hà Quốc", nối liền chữ Hà với chữ Quốc. THƯỢNG THƯỢNG là nói trên cao lại có cao, nên ý là nói chỗ vô thượng. MINH MINH là cao xa thăm thẳm, như trong thơ Đỗ Phủ có chữ "minh minh" trong câu “Hồng phi minh minh nhật nguyệt bạch, thanh phong diệp xích thiên vũ sương.” CAO! 皋 đặt đầu câu là hỡi ơi (như trong câu "Cao! Mỗ phục!" có nghĩa là "Hỡi ơi! Mỗ hãy trở về"). Còn chữ CAO 膏 này tương đồng với chữ ân trạch. CAO CAO ÂM DIỆU CHIẾU CÔNG NĂNG là nói "Hỡi ơi! Ân trạch diệu âm công năng chiếu phá vô minh." TỐI THƯỢNG VÔ KHÔNG BÀY SẮP CUỘC hay TỐI THƯỢNG HƯ KHÔNG VÔ CỰC BÀY SẮP CUỘC là nói Đấng Tối Thượng Hư Không Vô Cực Huyền Thiên (Khôn Đế, Vô Cực Hoàng Mẫu Diêu Trì) bày sắp cuộc thế dưới trần. [Chú giải của người soạn.]
"ẤN HOÀNG THIÊN LỊNH XOAY THỜI NGƯỢC [Hoàng Thiên ấn lịnh xoay thời cuộc]
CHỈ GIÁO TÒA ĐƯỜNG HÀ Ý KHANG [Tòa Đường chỉ giáo cho đời nên ông Hà cất tiếng]
HUYỀN THIÊN KHÉP LUẬT MÙA XUÂN TRƯỚC [Mùaxuântrước HuyềnThiên ban ThiênLuật]
HÀNH ĐÚNG LỊNH KỲ GIỮ GIANG SAN...[hành cho đúng, Sơn Hà giữ lịnh kỳ Thiên Luật]
THƯỢNG VÔ CAO CẢ HÀ HƯNG BƯỚC [cao cả vô thượng Hà Hưng bước]
THIÊN LỊNH ĐÔNG HÀ THIÊN SỨ MẠNG [lịnhThiên ĐôngPhươngSứ là thiênmạngcủaôngHà]
LƯU DANH KHÔNG LỘ DÙ XUÔI NGƯỢC [lưudanh màkhôngramặt dù bônbakhắpchốn]
HẠ ĐÁO TẦM PHƯƠNG GÁNH TUỒNG MÀN [Hà đáothế tìmphương gánhtuồngmànvai diễn]
LỘ NGỌC KIM GIAI HÀ UY RƯỢT [kimngai NgọcĐế đặt để cho Hà, theo đuổi sứmạng từlúc]
KỲ PHÁT ĐĂNG QUANG QUỐC HÀ SANH... [ấunhi chotớilúc QuốcHà đăngquang đã bạcđầu]
ĐẠI THIÊN TAM GIÁO ĐANG THAO LƯỢC [vị ThiênLớn của TamGiáo đang thaolược anbang]
HỘI LONG KỲ LUÂN CHUYỂN XỨ AN BANG.” [Chuyển Luân Thánh Vương hội kỳ long xứ xứ.]
(Đàn giờ Mão ngày 19 tháng 12 năm Đinh Dậu (4/2/2017). Thánh Đàn Nam Thành, Sài Gòn, Việt Nam, Hội Thánh Giáo Hội Trường Thiên. Tinh hoa hiệp thiên Kim Ngọc Thanh Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất kinh văn.)
THIÊN LỊNH ĐÔNG HÀ THIÊN SỨ MẠNG hay LỊNH THIÊN ĐÔNG SỨ THIÊN MẠNG HÀ là nói lệnh của Thiên Trời đặt để Đông Phương Sứ là thiên mệnh của ông Hà, Đức Ngài Hoàng Di Thiên Ngôi Hai Trào Tam. Đông Phương Sứ Giả là nói người mang nền Đại Đạo Nam Phương (tử khí Đông lai) đến Phương Tây khai giáo lập hội để hoằng hóa. PHÁT tức BẠCH PHÁT là nói tóc trắng, bạc đầu. ĐĂNG QUANG là nói lên ngôi, lúc Đức Ngài chính thức được sắc phong ngôi vị Giáo Tông của Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. [Chú giải của người soạn.]
Xem tiếp trang NAM BANG PHẬT QUỐC TIỀN ĐỒ VINH DIỆU #2