ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT
CHÁNH GIÁO THÁNH TRUYỀN
ĐÀN CƠ TẠI TÒA THÁNH TIÊN THIÊN
7/12/1933
TÁI BẢN VÀ ẤN TỐNG
PHÁP DANH CHƠN TỊNH
KIM THÀNH LONG
ÔNG VĂN – CHỢ GẠO – ĐỊNH TƯỜNG
Năm đạo thứ 33 mùa Thu Mậu Tuất 1958
Thi:
NGỌC Kinh vừa tiếp sớ đàn trung,
HOÀNG linh THẦY khen biết phục tùng
THƯỢNG giới ban hành lời chỉ dụ,
ĐẾ truyền tô điểm ĐẠO TRUNG DUNG.
Giảng:
Từ BÀN CỔ SƠ KHAI hỗn độn
KHÍ HƯ VÔ hiệp trọn ngôi TRỜI
Là ngôi THÁI CỰC tỏ ngời.
LƯỠNG NGHI sanh hóa phân rời ÂM DƯƠNG
KHÍ khinh thanh thuần DƯƠNG nhẹ hỏng
Hiệp TIÊN THIÊN bay bổng lên trên
KHÍ ÂM trọng trược chẳng bền
HẬU THIÊN vi ĐỊA nên liền lìa ngôi.
Ngôi TIÊN THIÊN phục hồi phẩm vị
Là ngôi CÀN cao quí vô cùng
HẬU THIÊN vốn thiệt quả KHÔN
Bảy hai thế giái không trung xây vần. [Thất Thập Nhị Địa, nằm trong không gian thiên thể]
THƯỢNG GIỚI ba sáu từng vọi vọi [Tam Thập Lục Thiên, nằm trong không gian phi thiên thể]
Cõi TIÊN THIÊN nhuần gội khí DƯƠNG
Khí ÂM bẩm thọ hơi DƯƠNG
ÂM DƯƠNG hiệp nhứt kiết tường ĐẠO sanh
Sanh ĐẠI ĐẠO là ngôi THÁI THƯỢNG
Sanh ĐẠI ĐẠO là ngôi THÁI THƯỢNG
Hóa TAM QUANG là Nhựt, Nguyệt, Tinh
Tinh tượng thế giái ba nghìn [Tam Thiên Thế Giới, nằm trong không gian phi thiên thể]
Tinh tượng thế giái ba nghìn [Tam Thiên Thế Giới, nằm trong không gian phi thiên thể]
Về quyền THIÊN ĐẾ giữ gìn xét xem. [Đứng đầu một thế giới là một vị Thiên Đế]
[HÓA TAM QUANG LÀ NHỰT NGUYỆT TINH = Từ ngôi Thái Thượng phân linh quang hóa Nhựt Quang Thần, Nguyệt Quang Thần, Tinh Quang Thần, là ba đẳng Quang Thần của Tam Thập Lục Thiên (Không phải nói trời, trăng, sao mà chỉ là mượn "tinh tượng" để so sánh cấp độ ánh sáng "oai lực" của chư vị.). Trong kinh Ngọc Hoàng Đảo Cáo có câu "Thượng chưởng tam thập lục thiên; Hạ ốc thất thập nhị địa", nghĩa là, Trên (Sky Above) cai 36 tầng trời thượng giới (36 Celestial Planes of Non-Planetary Sky, the so-called Sky Above); Dưới (Sky Below) quản 72 thế giới địa thuộc hạ giới (72 Planetary Universes within the boundary of Planetary Sky, the so-called Sky Below), và câu "Nhựt, Nguyệt, Tinh Thần chi Quân", nghĩa là: Là Vua của Dương Quang Thần, Nguyệt Quang Thần và Tinh Quang Thần. Mỗi vị Quang Thần này, danh gọi là Thiên Đế, cai quản một thế giới trong số 3000 thế giới (3000 Celestial Universes) phân bố trong 36 tầng (Situated throughout 36 Celestial Planes) thiên thượng (of Sky Above) nằm trong không gian phi thiên thể (within the boundary of Non-Planetary Sky) thuộc bầu khí Tiên Thiên (quả Càn) "nhuần gội khí Dương" (That's Non-Materialistic Great Sphere). Chư vị hiện thân trong 3000 thế giới khắp 36 tầng trời này được gọi là Chư Thiên, tức chư vị Thiên Cư, tức chư vị cư ngụ trên Thiên Cung (Sky Above Abode) trong hư không (Non-Planetary Sky). Còn thiệt trời, trăng, sao thuộc thể vật chất hữu hình thì chỉ hiện diện trong bầu Hậu Thiên (quả Khôn, quả Địa) trọng trược "khí Âm" (That's Materialistic Great Sphere) hình thành Thất Thập Nhị Địa (72 Planetary Universes within the boundary of Planetary Sky) phân bố trong Tứ Đại Bộ Châu (situated within four Great Quadrants of Planetary Sky), chứa đựng vô số kể thiên thể (infinite number of sky objects) hoặc thấy hoặc không thể thấy (seen or unseen through naked eyes or instruments), tất cả thuộc về hạ giới (Sky Below). Tất cả sinh chúng trong cõi giới "địa" này (Occupants of Planetary Universes) thuộc thành phần "địa cư" (Sky Below Abode or Earth Based Occupants). Quỷ, địa thần, và tất cả chúng sinh thuộc "địa cư" có thể phi thiên (They may be capable of flying around in the sky) nhưng không phải cư thiên (However, they are not Sky Above Aboder), nói cách khác là họ bị giam trong địa giới (They are Earth-Camp grounded).]
Miền HẠ GIÁI lập thêm bốn bộ
Thường gọi rằng Tứ Đại Bộ Châu
Trung [bên trong] [thế] giới [của] mấy quả Địa Cầu [Among 72 Planetary Universes within the Sky Below]
Địa Cầu sáu tám Đạo mầu phát sinh. [Specificly within the 68th Planetary Universe, ĐẠI ĐẠO appears]
LONG HOA HỘI khai minh ĐẠI ĐẠO
Là NHỨT KỲ PHỔ ĐỘ Kỳ chúng sanh
Nhiên Đăng Cổ Phật dạy rành
Thái Thượng Đạo Tổ ban hành đạo cao
Văn Tuyên Vương phụ vào giúp sức
Đặng chấn hành nhơn lực trần gian
Đạo khai từ thuở Tam Hoàng
Sang qua Ngũ Đế đạo tràn khắp phương
Truyền qua tới nhà Thương bạo ngược
Nên Đạo Trời không được hiển dương.
Giữa đời Châu, thuở Chiêu Vương
Đạo Quân giáng xứ Tịnh Vương độ đời
LONG HOA HỘI NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ
Đạo Phật vào Ấn Độ lưu hành
Thích Ca Phật Tổ chí thành
Từ ngôi Thái tử tách mình đi tu
Quyết dẫn kẻ ám mù buổi tối
Tìm Đạo mầu chẳng thối chí tâm
Bồ đề khổ hạnh mấy năm
Dày công tu luyện mới tầm lý sâu
Cuộc chung đỉnh bể dâu khổ não
Quyết dứt đường quả báo luân hồi
Người trong tứ khổ thương ôi
Muốn cho thoát khỏi luân hồi trần gian
Mong dẫn đến Niết bàn Cực lạc
Khuyên tránh đường lầm lạc gai chông
Tam qui, ngũ giái cho ròng
Dạy công tu niệm ngăn phòng tà tinh.
Đạo Thích vừa phát minh bành trướng
Đạt Ma truyền qua hướng phương Đông
Trung Huê truyền bá dày công
Đạo tràn khắp cả Á Đông thịnh hành.
Vì bị việc âm thinh sắc tướng
Mà Đạo mầu phải vướng gian nan
Thiên Tào thương kẻ khốn nàn
Thái Thượng vưng lịnh truyền ban ĐẠO TRỜI
Rằm tháng Hai ra đời cứu thế [Lão Tử giáng sinh]
Ra oai linh phổ tế sanh cầm
Đạo cao sửa chất phàm tâm
Tam ngươn ngũ lập, đạo thâm dạy truyền
Tinh, Khí, Thần, Tiên Thiên chí bảo [cực quý]
Luyện cho tròn hườn đáo cựu nguyên
Tu chơn luyện tánh chí thiền
Tuân y ngũ giới xa miền Hậu thiên.
Bởi người thọ chơn truyền ỷ sức
Dụng phép mầu giành giựt lợi danh [đạo sĩ háo danh lợi]
Khiến nên Đại Đạo tan tành
Đạo ngưng, không đặng ban hành về sau.
Đời chiến quốc Đạo Nho trổ mặt
Xuất Thánh Nhơn dìu dắt nhơn sanh
Trung dung Khổng Thánh chỉ rành
Cốt làm quân tử chí thành là hơn
Noi Đường, Ngu nghĩa nhơn Văn Võ
Truyền lục kinh chỉ rõ nhơn luân
Dạy khuyên xã hội nhơn quần
Tam cang đạo trọng, ngũ thường chớ quên
Lễ tôn ti, dưới trên phân biệt
Nữ cùng nam, hữu biệt vẹn toàn
Hiếu, trung, tiết, nghĩa phải toan
Tinh thần cho trọn chớ màng lợi danh
Vì chung đỉnh dỗ giành trước mắt
Nên người đời không chắc lòng son
Năm giềng ba mối không tròn
Biển trần chìm nổi hãy còn linh đinh.
Nhà Nam xưa hằng gìn phong hóa
Từ Hồng Bàng đạo hóa dân tâm
Phật, Tiên, Thần Thánh giáng lâm
Độ người Việt Quốc ân thâm đức dày
Tới trào Thần, người suy vật chất
Mất tinh thần, Thánh chất tiêu mòn
Cang thường, phong hóa không tròn
Đời càng hỗn độn, người càng cạnh tranh
Khắp năm châu, nhơn sanh xô đẩy
Thêm nhiều điều vướng bẫy phồn hoa
Vong xu nợ nước ơn nhà
Nghĩa nhơn chẳng trọn, hằng xa luân thường.
Lòng Trời cảm xót thương trần khổ
Lập TAM KỲ PHỔ ĐỘ dày công
ĐẠO TRỜI thưởng phạt chí công
Truyền khai ĐẠI ĐẠO PHỔ THÔNG khắp cùng.
Trời thương giống Lạc Hồng đồ khổ
Ra oai linh tế độ nguyên nhân
Độ dân khỏi bước phong trần
HOẰNG KHAI ĐẠI ĐẠO hưởng phần thiêng liêng
QUI TAM GIÁO thiện duyên ngộ Đạo
ĐẠO TAM KỲ toàn bảo người lành.
Hạ Ngươn thương lũ quần sanh
Tai nàn mạt kiếp Thiên Đình đã ghi
Thầy phải lập TAM KỲ ĐẠI ĐẠO
Rước nguyên nhân hườn đáo cựu ngôi
Tiên Thiên phẩm vị phục hồi
Tránh nơi bến tục, xa mồi vinh hoa.
Thầy đã xin cùng TÒA TAM GIÁO
Lập NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO độ đời
Ngũ Chi do gốc Phật Trời
Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Tân
Thêm Minh Lý lãnh phần truyền đạo
Ban sám kinh khuyên bảo tu hành
Sáu mươi năm trước chỉ rành
Thiên thơ ghi chép, Thiên Đình luật ban.
Minh Sư cùng Minh Đường một phái
Lo chấn hưng chế cải đạo Thiền
Đạo Thích đã thất kỳ truyền
Vì chưng tăng chúng không chuyên tu trì
Làm mất LÝ VÔ VI của PHẬT
Bày hữu hình vật chất không kiêng.
Minh Sư thọ đặng chơn truyền
Rèn lòng tụng niệm, tinh chuyên đạo mầu
Nhơn cuộc thế cơ cầu gay trở
Nên Như Lai Phật Tổ truyền ngôn
Truyền cho Đại Thánh Tề Thiên
Hiệp cùng Thiết Quả giáng miền Nam Bang [Việt Nam]
Cứu nguyên nhơn khai đàng dẫn nẻo
Truyền Thánh ngôn luật mẹo cứu đời
Minh Tân Thánh huấn truyền lời
Chuyên theo Đại học chớ dời lòng son.
Bởi thấy đời vì còn vật chất
Nên Cái Thiên Cổ Phật [Quan Thánh Đế] giáng trần
Lập chi Minh Thiện độ dân
Tùng theo Phật pháp tối tân Đạo mầu
Y tam ngũ, hồi đầu phục nhứt
Hiệp Thiên cơ, tùng luật Thiên Tào.
Vì chưng lắm cuộc phong trào
Mấy chi sợ khó hiệp vào một nơi
THẦY phải sửa cơ trời KHAI ĐẠO
Nên truyền cho Đạo Tổ giáng trần
Lập chi Minh Lý khuyến dân
Truyền ban kinh luật hồng ân cứu đời.
Tới năm Dần phải THỜI MỞ ĐẠO
Nên TAM KỲ ĐẠI ĐẠO phát minh
Tiên Thiên một gốc ba nhành
Thích, Nho, Đại Đạo hiệp thành ĐẠO CAO [ĐÀI]
Ba mối đạo gồm vào một chỗ
Đặng dễ phương phổ độ nhơn sanh
Tam Kỳ Đạo Cả dương danh
Là nhờ tâm chí nhiệt thành nguyên nhân.
Khuyên sớm lo tu chuyên qui tắc
Nên sửa mình dìu dắt thiện chơn
Lời Thầy khuyên chớ lạt lờn
Noi gương quân tử nghĩa nhơn vẹn toàn
Tu nhơn đạo, phải toan cho trọn
Giữ lòng lành, lỗi mọn chớ làm
Sá chi quyền quí tước hàm
Trăng tà, ác xế, mà ham làm gì.
Đạo trung dung thường ghi chạm dạ
Đạo trung hòa chẳng khá bỏ qua
Trung là chớ tưởng cao xa
Cũng đừng bất cập, tính xa tính gần
Giữ ngay thẳng, bình phân mới đáng
Trung vốn là gốc lớn đạo người
Hòa là đạo cả trên đời
Dĩ hòa vi quí, ghi lòng Thầy răn.
Bực quân tử phải năng tập luyện
Tư cách tròn, để tiếng muôn đời
Nhan-Uyên tâm chí phơi phơi
Đai cơm bầu nước, chẳng rời trung dung
Quân tử tùng ngũ luân vi bổn
Trượng phu do hiếu nghĩa vi tiên
Ngũ luân vốn thiệt năm giềng
Vua tôi, chồng vợ, cha con, ba hằng.
Thêm anh em, bạn lang, hai mối
Trọn năm giềng gồm cội nhơn luân
Vua tôi, đạo trọng muôn phần
Làm tôi đạt chữ trung thần dương danh
Lòng từ ái, xót thương lê thứ
Cũng đồng bào, nắm giữ mối giềng.
Làm con dĩ hiếu vi tiên
Phụ từ, tử hiếu, nhà yên phước toàn.
Tình chồng vợ, giàu sang chung hưởng
Lúc nghèo nàn, chớ tưởng bạc đen
Ham trăng vội bỏ ánh đèn
Thiệt lòng bội nghĩa tiếng hèn về sau.
Lòng tiết liệt, chớ xao lãng dạ
Khắn trung trinh, toàn giá hạnh mình
Anh em cốt nhục chi tình
Thượng hòa hạ mục, gia đình yên vui.
Chớ vì lợi, phanh phui gan ruột
Chớ vì danh, biến cuộc gia đình
Bạn bè giao kết chí tình
Giữ sao tròn nghĩa trung bình mới ngoan.
Đừng ấm lạnh nghèo sang chia rẽ
Tín nghĩa tròn, nặng nhẹ chớ sờn
Ngũ luân gốc đạo Thánh nhơn
Khuyên con chớ khá lạt lờn phui pha.
Đạo Nho vốn đạo nhà khi trước
Kính tổ tiên mới được ơn lành
Trung dung khuyên dạy đành rành
Muốn nên quân tử chí thành kiên gan.
Phải bền chí, lo toan sửa nết
Hạnh nhu hòa trước hết răn lòng
Tồn tâm dưỡng tánh đặng công
Lành ưa, dữ lánh mới mong nên người.
Thường xét mình sớm trưa cùng tối
Biết lỗi thì tự hối ăn năn
Trí nhơn dõng, mới gọi rằng
Là người quân tử đạo hằng tinh anh.
Trí là chẳng cần danh lợi hão
Tùng gương Trời giữ đạo thẳng ngay
Đợi thời gặp hội rồng mây
Đức tài chừng ấy phô bày tranh công.
Công danh ráng trả xong nợ thế
Tế độ người qua bể trầm luân
Nhơn là biết nghĩa, hiệp quần
Thương người đồng loại gian truân khốn nàn.
Vớt đồng bào lầm than khổ não
Lòng chí thành khuyến đạo độ đời
Dõng là mật trải gan phơi
Vẹn toàn nghĩa vụ, chẳng rời chí tâm.
Đủ nghị lực không lầm đường vạy
Chí hộc hồng, phi ngãi chẳng tùng
Kiên cường, khắn chí anh hùng
Trải tâm tuấn kiệt, thỉ chung vẹn toàn.
Không vì kẻ giàu sang khuất phục
Chẳng vì người nghèo cực mà khi
Sợ câu kiến nghĩa bất vi
Xử kỷ tiếp vật, thường ghi vào lòng.
Hằng chuyên lo thuần phong mỹ tục
Đạo hạnh tròn, thẳng mực cang thường
Thầy thương sanh chúng lạc đường
Nên dìu dẫn lối, vẹt đường gai chông.
Chỉ rành đạo trung dung quân tử
Đặng các con cư xử độ đời
Trước sau chớ khá đổi dời
Trau giồi tánh chất, nhớ lời Thầy khuyên.
Đời, Đạo ráng vẹn tuyền hai mối
Tháng ngày lo tu khối tinh thần
Mới mong thoát khỏi bể trần
Đạo thành, có thuở hưởng phần thanh cao.
Hiệp Tam Giáo gồm vào một mối,
Khuyên chúng sanh sám hối tu hành,
Thầy vì thương lũ quần sanh,
Hoằng khai Đại Đạo ba nhành qui nguyên.
Cho Tam Trấn thay quyền Tam Giáo,
Phật Quan Âm, Thích Đạo thế quyền,
Thái Bạch thay mặt Đạo Tiên.
Tam kỳ phổ độ lãnh quyền Giáo Tông.
Đạo Nho, giao Quan Công Đại Đế,
Ra oai linh phổ tế nhơn sanh,
Thánh truyền Thầy đã chỉ rành,
Vì sao Tam Trấn quyền hành Tam Tông.
Phật Quan Âm có lòng cầu khẩn,
Bố từ bi độ tận chúng sanh,
Tấm gương từ ái rỡ ràng,
Đặng quyền sửa trị đạo Thoàn khai môn.
Độ sanh chúng dập dồn nghiệt quả,
Cứu nguyên nhân kiếp đọa thoát vòng,
Thái Bạch lãnh chức Giáo Tông,
Thế quyền của đấng Chí Tôn răn đời.
Đặng thọ lịnh oai Trời sửa trị,
Vì có công xét kỹ dữ lành,
Linh Tiêu rực rỡ oai danh,
Giáng trần thay thế quyền hành Đạo Tiên.
Quan Thánh Đế cầm quyền Đạo Thánh,
Vì khi xưa lòng chánh dạ ngay,
Trung dung ghi nhớ hằng ngày,
Luận ngữ, Mạnh tử, không phai tấc lòng.
Minh Thánh Kinh, dày công khuyến thế,
Dạy đạo người: hiếu, đễ, tín, trung,
Độ đời công đức muôn trùng,
Nêu gương soi đạo trung dung sửa đời.
Đời hỗn độn đổi dời xảo trá,
Trời Phật toan cải hóa nhơn tâm,
Thánh Tiên tuân lịnh giáng lâm,
Độ người căn cội lỗi lầm xưa nay.
Mau hồi tỉnh mau quày trở bước
Lo tu thân tác phước cho cần,
Đại học dạy mối tu thân,
Khuyên con bền chí, siêng cần tinh chuyên.
Đứng Trượng phu ba giềng cho trọn,
Khá răn lòng, lỗi mọn chớ làm,
Giữ sao cho đặng chánh tâm,
Tập thành ý tốt, khỏi lâm bảy tình.
Muốn trí tri, phải rành vật chất,
Cách vật rành, hiểu luật tu thân,
Mới mong độ dẫn khách trần,
Mới mong tích đức tu nhân vẹn toàn.
Thành nhơn mới rỡ ràng gia đạo,
Mới có phương bổ báo ơn dày,
Mới mong tranh đức đua tài,
Độ người khỏi chốn trần ai khốn nàn.
Muốn minh đức tân dân phải ráng,
Ráng làm sao cho rạng danh hiền,
Gắng công chí thiện vẹn tuyền,
Có văn, có chất, phỉ nguyền nam nhi.
Tu nhân đạo phải suy xét kỹ,
Phải tùng theo chơn lý độ đời,
Gắng công tùng lịnh Phật Trời,
Thành công đắc quả, thảnh thơi linh hồn.
Khuyên các con tâm tồn nhẫn nại,
Ráng chuyên cần nhơn ngãi cho tròn,
Đảo điên, tạc một lòng son,
Cạn lời nhắn nhủ, khuyên con ghi lòng.
Ráng bền chí tới Long Hoa hội,
Mở trường thi phước tội cân phân,
Đức cao mới đặng hưởng phần,
Kiên tâm bĩ ngạn dò lần bước qua.
Lời Thánh huấn thiết tha ráng nhớ,
Nhớ tính xong mối nợ trần ai,
Thương ôi bể khổ lạc loài!
Ngày Tiên tháng Phật rộng dài bớ con!
(1) Rồi cũng thất nên Thầy khai đạo ban chơn truyền cho các con tu.
CHÁNH GIÁO THÁNH TRUYỀN
--------
LÝ tuân ý chỉ phán nhơn gian,
THÁI Thượng Tam Thanh tấu Thánh nhàn,
BẠCH Chỉ kim ngôn hồng tự điểm,
Thể Liên Tiên nữ giáng đài đàn.
(Thượng ỷ chứng đàn cho Thể Liên Tiên nữ dạy đạo)
------------
PHÁT MINH
THỂ LIÊN TIÊN NỮ
Này năm mười chín trăm ba,
Giáng cơ để vận nôm na ít lời;
Ráng khuyên phụ nữ trong đời,
Chớ rằng thấp thỏi mà cười mà khinh.
Người người đều sẵn tánh lành,
Phật Trời ban phú cho mình ban sơ;
Bởi hay lắt lẻo hỏng hờ,
Lầm đường lạc bến, sa cơ suy vời.
Muốn cho đem lại tánh Trời,
Hãy tua gìn giữ nghe lời Chị khuyên.
Tiên, phàm tuy có hai tên,
Muốn cho thoát tục thành Tiên khó gì!
Hãy lo hôm sớm tu trì,
Dồi mài bổn tánh qui y linh hồn.
Phật Trời Đạo thể Chí Tôn,
Lòng người nham hiểm ba vuông bảy tròn.
Đua chen trí xảo tài khôn,
Lâu ngày bổn tánh hao mòn chơn nguyên.
Dẫu cho cửu chuyển Thần Tiên,
Không trau chơn tánh, tự nhiên lụy mình.
Huống chi phận già hậu sinh,
Quên đường đạo đức, nên hình thể chi ?
Các em vụng tính hẹp suy,
Thấy đời rừng rực cứ đi theo đời.
Ham ăn, ham nói, ham cười,
Ham bề vật chất, ham mùi phù vân.
Sao không suy xét cân phân,
Mấy đời cõi tạm cho bằng quê xưa.
Hồng trần phơi nắng tắm mưa,
Sao bằng Tiên cảnh không trưa, không chiều.
Hồng trần khổ hạnh trăm điều,
Sao bằng Tiên cảnh tiêu diêu thanh nhàn.
Hồng trần là chốn lửa than,
Bọt nước sôi tràn thấy đó mất đây.
Ai ai chẳng hiểu lệ này,
Thác rồi nắm được trong tay vật gì ?
Đua chen khôn dại thị phi,
Tắt hơi nín thở còn đâu chi là?
Sao bằng giữ mực thật thà,
Rảnh rang xác thịt, ta bà hồn linh.
Cang thường đạo thể trọn lành,
Phật Trời qui luật chí thành phương vân.
Hồng trần trọn nghĩa trọn nhân,
Hồn linh mới bước đến tầng mây cao.
Thiện tâm chẳng dạ lãng xao,
Thiên đường mới được ra vào thung dung.
Một lòng một dạ thỉ chung,
Sống thơm danh giá, thác phong rỡ ràng.
Hãy xem Thần Thánh muôn ngàn,
Đều người nghĩa khí trung cang mới thành.
Gái mà tiết liệt trung trinh,
Gái mà tiết hạnh, Thiên đình bia tên.
Cung Diêu, cung quế, cung sen,
Hàng luôn tiên nữ, dãy liền tiên nga.
Rèm châu, vách ngọc, cột ngà,
Thủy tinh bao phủ, sáng lòa như gương.
Người đời yêu chuộng thủy xoàn,
Nào hay đồ dụng đài trang Tiên toà.
Người đời yêu chuộng vinh hoa,
Nào hay bị cái giây ma khớp vàm.
Chớ rằng tại ở cõi phàm,
Phải lo phu phỉ cho kham với đời.
Cõi phàm mà thấu đạo Trời,
Kìa trang Tiên Thánh cũng người phàm gian.
Giàu sang sánh với cơ hàn,
Giàu sang còn dễ bước đàng chơn tu.
Đố ai phân biệt trí ngu,
Mây bao bịch phủ, sương mù mịch giăng.
Người ngu mối đạo biết phăng,
Người khôn chừng thấy ăn năn muộn rồi,
Thấy vầy nên Chị ngùi ngùi,
Thương em Chị phải tới lui giảng bày,
Tam Kỳ sẵn mối Đạo Thầy,
Khá tua ráng sức cho dày công phu.
Thì giờ thấm thoát bóng cu,
Một ngày qua khỏi, ngàn thu không tìm.
Nữ sanh là phận các em,
Không lòng sốt sắng, càng thâm lạc lầm.
Chị xin Đức Mẹ chế châm,
Cho Chị giáng bút, Thánh tâm phân trần.
Mẹ cho, Chị xiết nỗi mừng,
Nên Chị vội vã ân cần đến đây.
Phái nam đã đủ chơn tay,
Phái nữ đến rày, xem thiếu Chị em.
Nghĩ coi tự cổ chí kim,
Làm thân con gái mỏng mềm sút thua.
Hêu đời cờ bạc hốt vùa,
Nết xấu ráng chừa, đặng giữ thân danh.
Khuê môn phận gái đã đành,
Đến việc tu hành lại cũng rút co.
Đường ngay ít kẻ đắn đo,
Đường ngay nẻo gốc lần mò lủi đi.
Phật Trời thương xót xiết chi,
Đã bày ngũ giới, tam qui rẽ ròi.
Ngặt lòng tín ngưỡng lôi thôi,
Có việc cầu Trời khẩn Phật tứ tung.
Từ đây khuyên khá rèn lòng,
Nghe lời chỉ bảo, chí công tập tành,
Công phu, công quả, công trình
Phân rành chương thứ phân minh tỏ tường.
QUI Y
Qui y chánh nghĩa: về nương,
E đường lầm lạc, phải nương cò người.
Xét coi dưới đất trên trời,
Có ba ngôi chánh đáng nơi cậy nhờ.
Minh mông thế giái cõi bờ,
Nhứt nương theo Phật đại từ đại bi.
Các em vụng tính hẹp suy,
Cứ tưởng rầm rì Phật ở Tây phương.
Nào hay trước mắt chán chường,
Phật là tri giác ở lương tâm mình.
Một lòng chí kỉnh chí thành,
Rửa lòng gian ác, sạch tình tà tây.
Màng chi lớp thịt da này,
Sắc thân bì nhục chóng chầy rã tan.
Kinh văn đã giảng rõ ràng,
Tự tâm tự tánh thật đàng qui y.
Người đời mảng bị giấc mê,
Trần lao ái dục, chẳng hề chịu buông.
Biểu sao tỉnh được linh hồn,
Muốn qui y Phật lại chôn ngươn thần.
Khuyên em hãy giữ lấy thân,
Trong mình đã sẵn tam thân Phật rồi.
Tánh người bẩm tại khí trời,
Tam thân Phật tánh trau giồi bổn căn.
Một là thanh tịnh pháp thân,
Hai là thiên ức hóa thân bồ đề,
Qui y tự tánh kiêng dè,
Báo thân viên mãn chở che hằng hà.
Tam thân thứ tự đủ ba,
Tự tâm qui hướng, thật thà đừng gian.
Qui y qui luật muôn ngàn,
Các em tua khá bền gan hẳn hòi.
Qui y Phật, giảng ít hàng,
Bước qua qui pháp, một đàng chỉ cho.
Pháp giả chánh dã, nghĩa to,
Ngươn thần giữ chặt, chớ vô nẻo tà.
Nhứt tâm nhứt niệm thiết tha,
Vô tâm, vô ngã thiệt là không không.
Vô ưu, vô lự thong dong,
Bất tham, bất dục, pháp trong tánh mình.
Chớ nên tu phước phóng sinh,
Có mong thì phải có tình ý tham.
Lo sao việc phải, phải làm,
Đừng toan tính trước, giành cam danh phần.
Dầu cho phước đức vô ngằn,
Phước tuy có đó, tội hằng đuổi theo,
Vì chưng cố ý dệt thêu,
Phải chi gặp dịp gặp dèo làm doan.
Vô tâm vi thiện mới ngoan,
Hữu tâm vi thiện, ai màng mà ham.
Biết rằng bất chánh mà làm,
Tội càng bội tứ, bội tam tội thường.
Chánh là một mực bình thường
Kìa trời nhựt nguyệt, âm dương đêm ngày.
Dầu cho tiết khí đổi thay,
Cũng là mực chánh chuyển day tư mùa.
Tánh em ham chuộng phù du,
Bạ đâu muốn đó như mù không cây.
Phải cho biết tối, biết ngày,
Biết trong, biết đục, vạy ngay cho rành.
Phải cho trí huệ thông minh,
Nghe chơn chánh pháp, bớt sinh mê đồ.
Em ôi! đạo chánh ráng tu,
Tham, sân, si, ái đường ngu răn chừa.
Đã sanh ra phận liễu bồ,
Giữ gìn cẩn thận, hỏng hờ sao nên,
Đừng tin rằng núi có Tiên,
Tây Phương có Phật, mà quên ơn Thầy.
Đạo Thầy chính trực ai tày,
Sáng tợ ban ngày, nào khuất lấp ai.
Tà ma ngoại đạo mỉa mai,
Tuyết tan giá rã, sương mai sá gì ?
Muốn cho thấy rõ huyền ky (huyền cơ),
Trừ tà thì thấy đường đi trang bằng.
Luôn lời Chị giải qui tăng.
Tam qui gìn giữ khít khăn chớ rời.
Tăng là thanh tịnh trong vơi,
Như trời êm lặng, không mòi gió mưa.
Lòng không ham, ghét, chuộng, ưa,
Giữ cho trong sạch bổn sơ tánh mình.
Nhựt nguyệt còn có hối minh,
Tăng qui nghiêm cấm tánh tình đổi trau.
Vững vàng chẳng núng, chẳng nao,
Lặng trang như nước, không chao, không tràn.
Công danh, phú quí chẳng màng,
Địa ngục, thiên đàng chẳng vọng, chẳng mê.
Đại hùng, dõng lực, đại bi,
Vô thinh, vô xú, vô vi, mực thường,
Biết sao thiệt thiệt, hơn hơn,
Biết sao thương ghét, ghét thương cõi trần.
Kìa kìa một đám phù vân,
Mà trời thanh tịnh lần lần trong xanh.
Tăng qui khuyên khéo giữ gìn,
Cho thanh cho tịnh như bình nước trong.
Các em xao xuyến tấm lòng,
Nước kia liền thấy vô cùng bợn nhơ.
Phong trần là cõi vất vơ,
Lòng đừng ham muốn ước mơ sự gì.
Quan Âm pháp lực thế ni,
Còn cầm thanh tịnh lưu ly ngọc bình.
Huống chi da thịt hôi tanh,
Mà lòng tình tắc, to quanh đạo mầu.
Cười thay những bậc sòng nu!
Chán đời rồi lại mượn màu che thân.
Tây phương lạy Phật nằng nằng,
Quên Phật đã rằng Phật tại bổn tâm.
Đại thừa ý vị cao thâm,
Giải cho em rõ đặng tầm cho ra.
Chớ rằng Đạo ở đâu xa,
Minh tâm kiến tánh, liên hoa hầu kề.
Tiểu thừa thêu đậm bộn bề,
Phân môn biệt phái, lộn về đường quanh.
Qui y chánh pháp chỉ rành,
Phải chuyên qui hướng trọn lành mới nên.
Còn nhiều qui luật tự nhiên,
Rảnh rang Chị sẽ chép biên giảng đàn.
Liên đài quốc sắc thiên hương,
Dựa hầu Thánh Mẫu, hiến trang như mình.
Khuyên em chí kỉnh chí thành,
Có ngày cũng sẽ tượng tranh Liên toà.
GIẢI THUYẾT ĐẠO PHẬT
Tây phương Giáo chủ Thích Ca,
Giảng minh thuyết pháp Thiên hoa Liên đài.
Hằng sa số Phật hôm mai,
Nhứt tâm qui hướng Như Lai phước điền.
Có câu Phật độ hữu duyên.
Khuyên ai ráng giữ bổn nguyên của mình.
Nhơn sanh vạn vật tối linh,
Tiền nhơn hậu quả, như hình rọi gương.
Phật ca hạ giáng Tây phương,
Xả thân cầu đạo bởi thương loài người.
Thương vì sanh đứng giữa đời,
Sánh cùng thiên địa, xứng ngôi Tam Tài.
Lý ưng mạnh giỏi hoài hoài,
Có đâu già yếu, hôm mai tật nguyền.
Đến cơn bịnh khổ triền miên,
Thác rồi hết kiếp, đảo điên trăm bề,
Sanh rồi lại bịnh làm chi,
Lão rồi lại tử, thảm thê vô cùng.
Nghĩ suy chi xiết não nùng,
Tuyết sơn tu luyện, dày công được thành.
Quyết lòng độ khắp chúng sanh,
Niết bàn diệu quả, chứng minh Bồ đề.
Rèn lòng nguyện lực đại bi,
Vô thượng, chánh giác, kiếp thì viên minh.
Đạo Phật càng gẫm càng kinh,
Bất sinh, bất diệt, minh minh muôn ngàn.
Đại thiên thế giới mang mang,
Vô biên, vô lượng, thanh nhàn trang nghiêm.
Sắc không, không sắc nan chiêm,
Vô ảnh, vô lượng, cổ kim diệu huyền,
Tâm lưu nhứt đán đắc nguyên,
Diệu trung chí diệu, hiển nhiên phi phàm.
Bình tâm dượng tánh cho kham,
Tu lai cải vãn, chớ ham vọng cầu.
Trong mình sẵn ngọc Minh Châu,
Trong mình sẵn Phâït, phải đâu mà tìm,
Trăng trong, gió lặng nước êm,
Gay chèo bát nhã, khoát rèm Chơn như.
Lần lần dọ bến Không hư,
Nọ bờ Cực lạc, kìa bờ phi phi,
Vượt qua Bát chánh đạo chi,
Trần sa vô bất liễu tri hiện tiền.
Trải sang vô sắc trùng thiên,
Linh sơn chứng quả, vô phiền vô ưu.
Mấy ai rõ thấu Đạo mầu,
Thông hành, thể, dụng, nguyên lưu Di Đà.
Dám rằng Đạo Ấn, Đạo Chà,
Khinh rằng quái đản, gọi là dị đoan.
Bắc, Nam cũng một con đàng,
Sợi tơ khéo nhuộm, xanh vàng tại tay.
Rừng xanh đố biết mấy cây,
Đáy sông mấy lớp, cung mây mấy từng ?
Đất sao chỗ nổng, chỗ bằng,
Chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ hoằng, chỗ cao,
Trên trời đố mấy ngôi sao,
Biển nọ ai đào, núi nọ ai xây ?
Loài người ai tạo ra đây ?
Thế gian ai sắm, ai bày thuở nao ?
U-ơ dường thể chiêm bao,
Đáy sông lặn nhào, mò vớt bóng trăng.
Khoe khoe, nói nói, rằng rằng,
Sức người trí thức thắng phần thiên nhiên.
Lại chê báu vật mọn hèn,
Cà sa, tích trượng, hóa duyên vô cùng.
Hiển vi mà rọi trên không,
Khác nào nhắm mắt, lặn sông bòn vàng.
Thước đo mà hiểu dinh hoàn,
Khác nào bầy kiến mò đàng tu di.
Con người chưa thấy sự gì,
Lường trời, đong đất, phân bì nhọc công.
Ngũ hành sanh khắc vừa thông,
Tưởng đâu đoạt hết Hóa Công mấy lò.
Ba ngàn thế giới Diêm phù,
Mới vừa, vừa biết, năm châu mơ màng.
Còn ngoài ngoài nữa mênh mông,
Đại thiên thế giới, muôn ngàn kiền khôn.
Một mình đức Phật Chí Tôn,
Trong ngoài hiểu thấu, chẳng còn xót chi.
Vị lai, quá khứ, hiện thì,
Giải phân kinh luật u vi rẽ ròi.
Trần sa bể khổ em ôi!
Phải độ mình rồi, đặng độ chúng sanh.
Đến ngày đắc quả tạo thành,
Siêu thăng thất tổ, độ thanh cửu huyền.
Muốn cho công quả vẹn tuyền,
Rửa xong nghiệp chướng, tập rèn chơn công.
Ngụy tà, phiền não không không,
Tam thân xiêu chứng, lục thông có ngày.
Ở ăn mực thẳng đường ngay,
Cang thường mựa chớ đổi thay tấm lòng.
Khắp trong Tam giáo đạo đồng,
Gái mà tiết hạnh, thỉ chung trọn đời.
Xử xong cho trọn đạo người,
Nhơn duyên viên giác Phật Trời chứng cho.
Có người gạt gẫm kẻ ngu,
Rằng thân phận gái dẫu tu không thành.
Một là thân phận hôi tanh,
Hai là vì bởi số sanh kiếp đày.
Ba vì lòng độc hiểm nguy,
Bốn là giống để làm tay chơn người.
Năm là yếu đuối biếng lười,
Sáu là giống để nối giòng người dưng.
Bảy là thân phận chiếu chăn,
Tám là phận phải kẻ chăn, người cầm.
Chín là dốt nát tối tăm,
Mười là đa cảm, đa dâm, đa tình.
Dầu cho vững chí tu hành,
Là tu hậu kiếp, nguyện thành nam nhi.
Nực cười cho kẻ ngu si,
Đặt điều lời nói, không vì không kiêng.
Rõ ràng kinh luật có biên,
Hàm linh xuẩn động hữu duyên năng thành,
Huống chi gái cũng chúng sanh,
Phật là từ mẫu nỡ đành chẳng thương.
Giải cho em đặng tỏ tường,
Giải cho em biết rõ ràng kẻo nghi.
Dầu cho nam tử, nữ nhi,
Ấy là sắc tướng của bề Hóa công.
Phật là chuyên trọng Tánh tông,
Tánh tông vô tướng, vô dung, vô hình.
Ngươn ngươn, hóa hóa, sinh sinh,
Bổn lai sẵn có ngươn tinh, khí, thần.
Gọi là Tam bảo chi thân,
Người tua trân trọng, muôn phần chớ rơi.
Còn phần nam nữ vóc người,
Ấy là xác thịt của người phàm gian.
Tu cho đến cõi Niết bàn,
Siêu phàm, nhập thánh, hoàn toàn chơn thân.
Xác phàm gởi lại hồng trần,
Chơn thân, tam bửu về phăng Liên đài,
Phật không phân biệt gái trai,
Hễ là đắc quả, thì ai cũng đồng.
Kìa như điểu, thú, côn trùng,
Chí tâm mộ Phật, thỉ chung cũng thành,
Giải cho em rõ ngọn ngành,
Ráng lo ăn học, tu hành cho nên,
Còn nhiều nghĩa lý hiển nhiên,
Đoạn sau Chị sẽ giảng riêng từng phần,
Tu hành em ráng ân cần,
Có thân thì phải giữ thân làm đầu.
GIẢI THUYẾT ĐẠO LÃO
Kiền khôn thế giới một bầu,
Lão Quân Đạo Tổ cung Đâu giáo truyền,
Đạo nguyên Tiên, Hậu, nhị Thiên,
Làm đầu vạn Thánh quần Tiên trên trời,
Kể từ khai tịch dĩ lai,
Giáng sanh hóa đạo, chẳng nài công phu,
Hư không dường thể bóng thu,
Bí truyền tánh, mạng, song tu huyền hoàng,
Người tu định nhiếp âm dương,
Hình thân bảo dưỡng, bảo toàn linh minh.
Tuy vân: tích khí thành hình,
Âm dương nhị khí, khinh thanh thượng phù.
Trọng trược ngưng hóa địa cầu,
Bắc nam Thiên trục, Thiên xu chẳng dừng.
Ngày đêm nhựt, nguyệt, tinh thần,
Sanh nhơn, sanh vật, lần lần mở mang.
Gọi là một cõi thế gian,
Ngoài đây còn có ba ngàn minh mông.
Đạo thông thiên địa vô cùng,
Diệu truyền yếu chỉ Hóa công dạy đời.
Chỉnh xem ý vị của Trời,
Lặng trang êm phẳng, không hơi, không rằng.
Chơn không thủy, hỏa, đôi vừng,
Chuyển luân nhựt, nguyệt, lưu tuần ngày đêm.
Hằng sa tinh tú thuộc Kim,
Như châu, như ngọc để ghim nửa lừng.
Gió dông thay đổi Hồng quân,
Ấy là Chơn Mộc choán phần không trung.
Chuyển gầm sấm sét đùng đùng,
Ấy là Chơn Thổ vẫy vùng thiên oai.
Ngũ hành ấy thuộc phần Trời,
Còn phần dưới đất, thì người đều thông.
Con người sanh ở giữa vòng,
Đủ trời, đủ đất ở trong thân mình.
Ngũ hành còn phải chia rành,
Âm dương thiên địa, hình danh thể nào.
Y gia đã có công cao,
Chia hai tạng phủ, trỏ vào âm dương.
Dùng công Tạo Hóa đặng lường,
Những đồ vật chất thuộc nguồn chơn âm.
Hiên kỳ, mối đạo cao thêm,
Người chưa hiểu thấu, nên lầm, nên sai.
Ngũ hành phải biết có hai:
Có hình thuộc đất, ở trời thì không.
Nhơn thân là tiểu kiền khôn,
Khinh thanh, trọng trược, hiệp thành hóa sanh.
Tạng, phủ, là âm ngũ hành,
Còn dương ngũ khí lưu hành châu thân.
Học đạo càng phải biện phân,
Giữ gìn bất đổ, bất văn mới mầu.
Phóng tâm, âu phải ráng thâu,
Thâu tâm định tánh, đặng cầu Thiên chơn.
Tai nghe quá giận, quá thương,
Ấy là thiên thủy dẫn đường tươi trong.
Bắt mùi hoặc thích hoặc không,
Thiên kim nơi mũi, hơi lồng thấu tim.
Miếng ngon hoặc nhớ, hoặc thèm,
Lưỡi là Thiên hỏa nhiếp đem vào lòng.
Sắc nào ưa đẹp muốn trông,
Ấy là Thiên Mộc, tại tròng con ngươi.
Vật dục che lấp lòng Trời,
Ấy là Thiên Thổ, ý người ham mê.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, ráng dè,
Đều quan tâm ý, thiệt là chơn tu.
Ngũ hành, thiên địa mù mù,
Mà mình sẵn đủ, lựa cầu đâu xa.
Âm dương, nhị khí của ta,
Đục trong phân biệt, điều hoà chơn như.
Gìn lòng thanh tịnh, không hư,
Lòng đừng xao dợn, đặng trừ bợn nhơ.
Lòng đừng vọng tưởng ước mơ,
Ý tua đính tóm, chơn cơ hoàn toàn.
Hãy xem vũ trụ dinh hoàn,
Đều đồ hư mục, chớ màng chớ mê.
Tục rằng: sống gửi, thác về,
Thần Tiên bất lão, có hề chi đâu.
Dẹp xong ngũ tặc làm đầu,
Quan tâm quan vật, rồi sau tập tành.
Tam quan rọi thấu ngươn thần,
Tam thân hiệp nhứt chơn nhơn công thành.
Ấy là đến bực trường sanh,
Còn muốn thân hình bạch nhựt siêu thăng.
Phải lo bồi đắp bổn căn,
Thiên kim diệu lý sẽ phân có ngày.
Nhứt tâm tín ngưỡng tới Thầy,
Lời rằng: Tao đố không thầy mầy nên.
Các em sốt sắng cho bền,
Muốn cho nhà cửa vách phên vững vàng.
Phải lo nền đắp cho an,
Có Kinh Cảm Ứng chỉ đàng tu thân.
Mới đây "Thiệp Quyết Tu Chơn",
Của Thầy ban bố công ơn vô ngằn.
Có phước nên mới có phần,
Có đâu nghe được lời trân trọng này.
Huỳnh Đình tu luyện đêm ngày,
Tu tâm dưỡng tánh, sánh tày Hóa Công.
Kiếp đời, cá chậu, chim lồng,
Trăm điều giả dối, có thung dung gì!
Trời kia mà giả mới kỳ,
Kìa mây khi nổi, khi bay mấy hồi.
Đất sao chỗ lở, chỗ bồi,
Cũng là giả cuộc, có đời chi đâu.
Người đời lúc mạnh lúc đau,
Hoặc còn, hoặc chết, chiêm bao làm tuồng.
Vì chưng ngũ tặc loạn chơn,
Tâm thần chẳng tịnh, nên vương lưới trần.
Âm dương đạo đức sáng trưng,
Dùng gương vô kiệt, luyện thần hư vô.
Phải phân tà chánh lưỡng đồ,
Bàng môn, tả đạo, ai khờ phải mang.
Nghĩ coi cũng một con đàng,
Nó chia nam bắc, rộn ràng, lăng xăng.
Điền Ly, bổ Khãm tưng bừng,
Thêu đơn, luyện hống, nhố nhăn mơ hồ.
Đường ngay, em cứ bước vô,
Lâu ngày tà giáo làm trò gì nên.
Ráng nghe lời Chị dạy khuyên,
Có ngày cũng được bạn Tiên, cung Trời.
Pháp ngôn sơ dẫn ít lời,
Huyền gia bửu pháp, nhiều lời dạy sau.
CAO THIÊN ĐÀN (KIÊN GIANG)
Đêm 7 tháng 1 Annam (Tân Vi)
CHÍ đức hóa thương sanh,
THÁNH mô tập đại thành,
VĂN chương nhi võ hiển,
TUYÊN đạo định sang kinh.
CHỨNG thử tam tùng giáo,
THỂ trình ngũ sắc quang,
LIÊN hoa chơn thắng cảnh,
ĐÀN sĩ tánh tâm minh.
Thượng ỷ chứng đàn cho Thể Liên Tiên Nữ.
THỂ dụng hoàn toàn doãn khuyết trung,
LIÊN tư khiết bạch tự nhiên dung,
TIÊN thiên đạo hiệp tam nhi nhứt,
NỮ khảm nam ly đoạt hóa công,
Bần đạo chào chư đạo hữu.
GIẢI THUYẾT ĐẠO LÃO
1. Thánh kinh trung hiếu làm đầu,
Dầu nam dầu nữ phải trau trọn niềm,
Trải xem sách vở cổ kim,
Ngàn kinh muôn điển dạy kềm thảo ngay.
2. Trời cao biển thẳm đất dày,
Nho gia vững đặt chẳng lay chẳng sờn,
Dạy người luân lý cang thường,
Dạy người trung tín nghĩa nhơn vuông tròn.
3. Dạy cho biết phép biết khuôn,
Lễ nghi đạo đức cội nguồn đâu sanh,
Trung Dung hai chữ chí thành,
Phát minh thiên địa, lưu hành căn cơ.
4. Dịch kinh chép để sờ sờ,
Hà Đồ lại với Lạc Thơ rõ ràng,
Thánh nhơn nghiên cứu âm dương,
Ngũ hành sanh khắc tuần hườn châu nhi.
5. Đạo thông từ lúc Phục Hy,
Lần qua Đại Võ đến kỳ Văn Vương,
Châu Công, Khổng Thánh, tiếp nương,
Lập thành mối cả, mở mang con người.
6. Từ sanh có Đất có Trời,
Có người mới đủ sánh ngôi Tam Tài,
Âm dương một Lý mà hai,
Như người một giống gái trai hai hình.
7. Trời thì sanh có năm Hành,
Người thì năm đức sẵn in vào lòng,
Suy ra cho tột cho cùng,
Thiên nhơn nhứt Lý quán thông chẳng rời.
8. Nghĩ rồi mới rõ Đạo Trời,
Rõ rồi nên phải bày lời dạy khuyên,
Xưa nay những bực Thánh Hiền,
Thay Trời dạy Đạo sách biên muôn vàn.
9. Dạy cho khắn khít Tam cang,
Dạy cho gắn chặt Ngũ thường nhơn Luân,
Thi, Thơ, Lễ, Nhạc Điển phần,
Hiến chương Văn Võ noi chừng Thuấn Nghiêu.
10. Tam thiên tam bá đủ điều,
Dùng gương tiên giác dắt dìu hậu lai,
Dạy đời chẳng sót một bài,
Tề gia trị quốc chẳng sai một hào.
11. Nho gia rộng lớn xiết bao,
An dân an quốc công cao muôn đời,
Những điều cư xử làm người,
Chẳng sót một lời Ngài nỡ bỏ qua.
12. Đến phần triết học cao xa,
Sánh cùng Phật Lão cũng là mỉa mai,
Kẻ sau học hỏi sơ sài,
Chia phe, chia phái, biếm bài khen chê.
13. Chưa thông ý vị Trọng Ni,
Mà chê đạo khác thuộc về dị đoan,
Chẳng dè Tam giáo Thánh Nhân,
Truyền trao mối cả phải nương theo thời.
14. Nói rằng Phật Lão hại đời,
Chẳng dòm Khổng Giáo hiếm người bội sư,
Đạo nào cũng tại người hư,
Đạo nào cũng giữ khư khư tánh Trời.
15. Bổn sơ khuyên chớ đổi dời,
Chỉ ư chí thiện trọn đời đừng sai,
Ngọc trong nhờ có sức mài,
Người muốn nên tài thời phải chí tâm.
16. Tấc vàng, tấc bóng quan âm,
Ba dư mựa chớ tưởng cầm rằng chơi,
Muốn cho đứng đợt với đời,
Nhơn hoà, Địa lợi, Thiên thời phải thông.
17. Muốn rành thể dụng Hóa công,
Âm dương động tịnh chấp trung điều hoà,
Mọi người noi giữ giềng ba,
Gìn câu tha thiết trát ma chớ rời.
18. Nhơn tâm nguy lắm em ôi,
Gìn lòng thân độc giữ lời u vi,
Quang phòng hai chữ trí tri,
Chánh tâm thành ý, vô vi không điền.
19. Hi Hiền, hi Thánh, hi Thiên,
Do mình trì chí tự nhiên được thành,
Có câu Thiên Địa hiếu sanh,
Họa dâm, phước thiện bởi mình mà ra.
20. Khuyên đời khá bỏ thói tà,
Tồn tâm, dưỡng tánh, ta bà hư thân,
Khắp trong Tam giáo Thánh nhân,
Người Tiên, người Phật, Thánh Thần giống nhau.
21. Dạy điều ngay thảo làm đầu,
Làm lành lánh dữ trước sau một niềm,
Bình tâm chánh nghĩ mà xem,
Đạo Nho, Thích, Giáo, thù hiềm bởi đâu?
22. Chẳng qua tại kẻ làm đầu,
Xảo ngôn, dĩ tử loạn châu nơi mình,
Có câu Thiên địa lưu linh,
Vô thinh, vô xú, vô hình, vô danh.
23. Mang mang Thiên lý lưu hành,
Vô ý, vô tất, ngươn hành trinh kiên,
Trung Dung bất diệt bát thiên,
Quang tiền dữ hậu danh truyền thiên thu.
24. Trạch dân trí chúa thân tu,
Dương danh hậu thế qui mô vô cùng,
Thánh ngôn thiên tải kỳ phùng,
Các em mựa chớ tấc lòng đơn sai.
25. Ngày đêm hôm sớm khuya mai,
Sắt kia có thuở mình mài nên kim.
BÀI KHAI THÔNG
Đàn Cơ Tại TÒA THÁNH TIÊN THIÊN NGÀY 7-12-33
THI
HUỲNH Đạo truyền ban khắp đại đồng,
MI tu nặng nợ với non sông,
ĐỒNG bào đồng chủng đừng chia rẽ,
TỬ đệ tử tôn hiệp một lòng.
Báo bổ ân sanh cần lập đức,
Tin tường nghĩa nặng ráng bồi công,
Đàn(g) hoàng phẩm hạnh người tu sĩ,
Nội tổ, ngoại tông đến cảnh bồng.
Tiểu Thánh chào Thiên mạng nam nữ đàn trung. Tiểu Thánh báo tin cho hay, có đức Thánh Sư Nho Giáo lâm đàn. Vậy Tiểu Thánh có đôi lời mừng chư hiền nam nữ hữu phước ngộ được Đạo Trời: Ai là người tu hành, sẽ cứu được Cửu Huyền Thất Tổ siêu thăng. Vậy Tiểu Thánh có đôi lời.
Xin hộ đàn. Kiếu. Tiếp lịnh.
THI
VĂN chương giản dị thuận ngôn từ,
TUYÊN bố cao kỳ ý kiến dư,
KHỔNG Trọng Ni này thua Hạng Thác,
TỬ Kỳ tri kỷ Bá Nha ư.
HƯNG thì như phụng, suy kê giả,
NHO thế rừng hoang, tự bấy chừ;
GIÁO hóa lương sanh hành ngũ đức,
CHỦ tâm kềm vững chí vô tư.
LÃO, THÁNH SƯ, chào mừng nam nữ; Lão Sư miễn lễ tam ban đồng an tọa, tịnh tâm nghe Lão dạy. Nền Nho Giáo của Lão sư dạy rõ bổn phận làm người xử thế ăn ở hợp thời, dễ tiến hóa trên nền tảng đạo đức chánh nghĩa, vị nhơn sanh chớ không vị kỷ; vì nhơn nghĩa, chớ chẳng vì danh lợi. Nhơn loại hiện thời ở trên quả địa cầu này, ai cũng muốn hưởng cảnh hoà bình, nhơn ái công bằng, thì không có phương pháp nào hay hơn là thực hành đúng theo hai chữ : nhân và nghĩa. Ở đời, có nhân có nghĩa phong tục mới ra vẻ tốt đẹp, trật tự mới rõ ràng, tôn ty mới phân biệt.
Bởi vậy, nền Nho Giáo của Lão Sư sáng lập trong thời phong kiến, không hạp nhơn tâm, vì chư hầu mảng lo vụ danh vụ lợi, rồi cứ mãi đấu tranh, để đoạt quyền tranh vị. Bởi thế, Lão Sư chỉ thâu thập được Tam thiên đồ đệ, Thất thập nhị Hiền. Sánh lại với Đạo Trời hôm nay, riêng về Thánh Sư cho đến tất cả Tứ Giáo đều kính phục quyền năng của Đấng Thượng Đế, là toàn tri, toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ trong kỳ Hạ Ngươn này.
Lão Sư quả quyết rằng, trừ ra Đức Thượng Đế, không còn vị Giáo Chủ nào dám thọ lãnh sứ mạng mở Đạo Kỳ Ba này. Chính mình Thầy là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà phải hiệp cùng với các chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, nhơn, để mở Đạo kỳ này. Rất hữu phước thay! Người căn vị sớm gặp Đạo Trời, bồi công, lập đức kịp Hội Long Hoa. Nhưng cũng đáng tiếc thay! Còn phần đông chưa hiểu rõ Đạo Trời, mảng say mê trên đường vật chất, lợi danh, cho chí những người đã vào cửa Đạo, hiểu rõ lẽ huyền vi của Tạo hóa, mà lòng còn nghi ngại mơ hồ thành không làm tròn bổn phận của Ơn Trên giao phó.
Đàn hôm nay, Lão Sư dạy về tư cách, cử chỉ người đạo đức thuần mỹ. Lẽ ra, đến thời kỳ này, chư hiền tiến đến cơ Đạo vô vi thì những đức tánh phải đầy đủ hoàn toàn.
Trái lại, Thánh Sư xem thấy còn sơ sót rất nhiều, nên Thánh sư dạy lại một bài, để nữ nam hằng ngày học lại từ câu răn lòng sửa tánh:
BÀI
Học tốt không, mà không học tốt,
Không học thì chịu dốt chẳng sai;
Tục rằng: ăn vóc, học hay,
Người mà không học trí tài khó thông.
Thuở thiếu thời, gắng công học tập,
Khi thành nhơn, thâu thập điều hay,
Đọc rành, tính lẹ viết hay,
Có văn, có chất, đức tài đi đôi.
Kẻ vô phước, lôi thôi không học,
Người hữu phần chí dốc học hành,
Nên nay được rạng thanh danh,
Được ngồi trên trước thi hành nghề văn.
Đời học đoạt: cấp bằng vinh diệu,
Đạo học cần để: hiểu thi hành,
Nữ nam phải ráng đua tranh,
Học thông Luật Đạo, học rành Sám kinh.
Đây là nơi sân Trình, cửa Khổng,
Đó chư hiền, nền móng Đạo Trời,
Quyết tu, thì phải tô bồi,
Học thời giúp Đạo, kịp thời lập công.
Những khóa học ở trong trường Đạo,
Những Hạnh đường huấn giác hành y;
Đúng theo Đạo Luật Tam Kỳ,
Hiểu tường nhiệm vụ, khá thi hành xong.
Lão Thánh Sư ước mong chư đệ,
Học bổn này ráng để thực hành,
Rõ tường phận sự giảng rành,
Nữ nam cố gắng, chí thành thì nên.
Người đạo đức, phải bền chí cả,
Bực chơn tu, công quả mót bòn,
Nghề văn lập đức hành tròn,
Cần kiệm, liêm chánh, bảo tồn thanh danh.
CẦN, cần mẫn, thi hành mỗi việc,
Cần siêng năng mến tiếc ngày giờ,
Việc làm chớ để ngẩn ngơ,
Nay rồi phải ráng, chớ chờ ngày mai.
Cần sốt sắng hằng ngày lo liệu,
Cần cố cần dạy biểu lẫn nhau,
Cần chuyên phận sự phó giao,
Ân cần mỗi việc cho mau hoàn thành.
KIỆM, tiết kiệm, chớ đành hủy hoại,
Việc giấy tờ nên phải kiệm cần;
Kiệm cần sẽ được an thân,
Những điều xa xí bớt lần chi tiêu.
Việc đáng làm bao nhiêu cũng được,
Việc ít cần, châm chước cho vừa,
Đừng làm tổn hại bỏ thừa,
Ấy là tiết kiệm, sớm trưa giữ lòng.
LIÊM, thanh liêm, của công chẳng bợn,
Liêm sỉ là trắng trợn, không nhơ,
Thanh liêm, hai chữ phụng thờ,
Rạng danh hiền đức sĩ thơ tu hành.
CHÁNH, minh chánh, thanh danh bảo vệ,
Chánh một đường, chẳng nệ khó nghèo,
Chánh chơn, dạ chẳng cong queo,
Chánh tâm, chánh nghĩa dẫu nghèo cũng cam.
Chánh trung liệt để làm nhiệm vụ,
Chánh trực ngay bảo thủ, vai tuồng,
Chánh chơn giữ phận tròn vuông,
Vô tư giữ vững lập trường chánh tâm.
Nguời đạo đức lỗi lầm khá sợ,
Bực tu hành lầm lỗi ăn năn,
Lỗi lầm chớ phạm hai lần,
Vô tình tái phạm, chịu tăng tội thời.
Vì tư cách của người đạo đức,
Dầu Cửu Trùng, hay bực Hiệp Thiên,
Đều là gương mẫu Tiên Thiên,
Phải gìn luật Đạo, cần chuyên tu hành.
Giữ cho tròn thanh danh Đại Đạo,
Hành cho y tôn giáo của Trời,
Biết tu, thì phải tuân lời,
Bảo vệ phẩm giá, đạo người vẹn xong.
Chớ dấn thân theo vòng tứ khổ,
Chốn phồn hoa là chỗ đọa đày,
Là trường náo nhiệt đắng cay,
Là nơi biển khổ trần ai hại mình.
Chớ tửu quán trà đình lê lết,
Chớ trêu đùa giỡn cợt nữ nhân,
Người tu cẩn hạnh, cẩn ngôn,
Nằm, ngồi phải chỗ, bảo tồn thanh danh.
Sự ăn mặc cho lành kín đáo,
Đạo phục thường, dùng trắng áo dài,
Khi rước khách, lúc ra ngoài,
Luôn luôn thủ lễ, chớ sai phận mình.
Mỗi tư cách vẹn gìn chặt chẽ,
Đạo đức cần, lễ, nghĩa, sỉ, liêm,
LỄ là phép tắc trang nghiêm,
NGHĨA là cư xử trọn niềm công ơn.
SỈ, nho nhã hiền nhơn quân tử,
LIÊM chánh tâm gìn chữ bạch thanh,
Lễ, nghĩa, liêm, sỉ dạy rành,
Tư tưởng, lời nói trọn lành, hành y.
Giữ thanh tâm cho thì trong sạch,
Cử chỉ rành tư cách tự nhiên,
Thái độ đối xử trang nghiêm,
Ôn hoà, nhã nhặn, mỏng mềm, nhẫn kiên.
Cư xử nhau nhường kiên, cung kỉnh,
Bỏ những điều cá tính phàm nhơn,
Tự kiêu, tự đắc gây hờn,
Tự cao, tự đại, khi nhơn, chác thù.
Lòng tự ái biết tu ráng sửa,
Tánh tự mãn bữa bữa cần trau,
Tự tôn, tự phụ mình cao,
Toàn là phàm tánh nhuộm màu tiểu nhơn.
Hằng kiểm điểm trong cơn tư tưởng,
Nói với làm liệu lượng cho y,
Đúng theo đường lối của Thầy,
Tu thân sửa kỷ dạy bày dành phân.
Phải có dạ kỉnh nhân, trọng thế,
Kỉnh mỗi người như thể kỉnh Thầy;
Kỉnh Thầy, kỉnh bạn, đó đây,
Kỉnh trong nhơn loại lòng đầy ý thương.
Hằng tư tưởng thiên đường hạnh phúc,
Hằng sợ lo địa ngục sa vào,
Mến người lành, đạo đức cao,
Thương hại kẻ dữ ráng sao dắt dìu.
Tôn trọng nhau trên yêu, dưới thuận,
Ý kiến đồng thỏa thuận việc làm,
Việc làm sáng kiến tròn kham,
Phô bày mỗi việc luận đàm với nhau.
Tánh nóng nảy khá toan chừa bỏ,
Tâm chủ quan chớ có bảo tồn,
Việc chi chớ khá bôn chôn,
Dặt dè bổn phận bảo tồn trước sau.
Tánh siêng năng làm mau, làm khéo,
Việc hành trình mực mẹo giữ tròn,
Bảo tồn vật liệu bền còn,
Của chung gìn giữ cho tròn mới ngoan.
Tiền tài chớ lòng toan nhơ bợn,
Vật chất đừng thể bợn trần ai,
Đừng cho dính dấp trong tay,
Luôn luôn rửa sạch lòng ngay chánh đường.
Việc xử sự giữ thường một mực,
Chữ công bằng tích cực hành y,
Không thiên vị, chẳng tư vì,
Điều hay lẽ phải cứ theo thi hành.
Dầu gặp cảnh khổ nghèo thốn thiếu,
Cũng đành cam dạ chịu thanh bần,
Những điều đòi hỏi xác thân,
Luôn luôn kềm chế lòng trần dấy lên.
Việc ăn mặc khá nên cần kiệm,
Dầu tiền dư mình kiếm tạo ra,
Cũng là công khó lắm mà,
Biết tu thì khá lo xa mọi điều.
Lão Thánh Sư gợi khêu tỏ rõ,
Cả nữ nam gắn bó nơi lòng,
Tu là lập đức bồi công,
Ngày thành Đạo, hưởng phước hồng Trời ban.
Một bài giảng dạy đuôi đầu,
Hằng ngày đọc lại từ câu răn lòng.
Lão Thánh Sư để bao nhiêu lời cho chư hiền nam nữ cần ghi lòng trau sửa cho ra vẻ đạo đức thuần lương chi mỹ, hầu ngày thành Đạo được hưởng phước Từ Lành.
Nầy chư hiền ôi! Lão Sư nhớ lại đời hành đạo Lão Sư rất ngậm ngùi. Ở dưới cõi trần này ai là thân phàm xác thịt, thì cũng đều có những cá tánh phàm nhơn. Bởi vậy, lúc Thánh Sư truyền Đạo không được hưởng ứng của chư hầu; Thánh Sư thốt lời tự cao rằng: Ai biết dùng ta trong mấy tháng, thì nên việc lớn ba năm, thì những việc chi chi cũng hoàn thành. Bởi lời tự cao tự chủ ấy mà Đức Lão Tử hóa Thần Đồng Hạng Thác, gọi là Thần Đồng vấn Khổng Tử còn lưu lại đến ngày nay.
Này chư hiền ôi! Nên noi gương Thầy là bực Đại Từ Phụ, Chúa Tể cả Càn Khôn, luôn luôn hạ mình dạy dỗ nhơn sanh. DÙNG TOÀN LỜI BÌNH THƯỜNG GIẢN DỊ, ai ai cũng dễ hiểu. Chư hiền đã xem qua quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển rồi, đã nhận những lời thường của Đấng Chí Tôn dạy các môn đồ, như là người cha phàm dạy con đó chăng. Mà đó là thật lời của Đấng Chí Tôn dạy như thế; chư hiền nên noi gương ấy mà tìm những lời dễ hiểu, để dạy dỗ nhơn sanh.
Đạo Thầy rất cao quý, là độ được tất cả hạng người từ thấp đến cao, vạn linh sanh chúng. Nếu ai làm tròn phận sự đạo đức, thì cũng được thành công đắc quả.
Liên Thanh Sưu Tập
Gửi ý kiến của bạn