ĐÀN GIỜ MÃO
Ngày 23 tháng 10 năm Đinh Dậu
Ngày 10 tháng 12 năm 2017
Đàn Tràng Nam Thành
Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền
Tiếp Điển Ứng Khẩu Lưu Xuất Thánh Giáo
Bấm Vào Thanh Để Nghe
Pháp Âm #107
Chắt chiu cầu bài pháp Thiên Đài
Nhất tâm sang sửa mặt mày
Chiều nay mai muốn PHÁP BÀI HUYỀN THIÊN
Trên Đảnh Thượng luận phiên Thượng Cổ
Chúc con hiền về chỗ Thành Đô [1]
Lo cho hiếu mẹ điểm tô
Rồi nhín một chút nam mô lịnh truyền
Ở ngôi gia có gác tư riêng để tịnh
Ngồi xếp bằng chánh định ma ha
Con hiền đừng có sợ ma
Để Ông giúp sức thật thà sửa sang
Năm con Gà PHẬT HOÀNG luân chuyển
Đất LÁNG LINH cổ điển ÔNG HAI [2]
Chiều nay định số an bày
Cho ai biết được PHẬT NGÀI GIÁNG LÂM
THÂN PHÀM XUẤT THẾ ĐẦU NĂM
Đi hơn tuần lễ dập bầm giầy da
Vui buồn hay hỡi Cổ Già
Khi con về tận ngôi nhà có sao
Người tu mi một màu chánh định
Thì làn hơi này thiện tính Sài Gòn
Bữa nay có hai vị đạo con
Đến gieo chuyện cũng còn đắn do
Hoàn cảnh ấy hay ho đoạn cuối
Chúc CA LI mát suối trong veo
Hai người tạm ở Hòn Heo [gần Hà Tiên]
Còn ta tiếp tục leo trèo núi non
Về hai lần thân con bị bịnh
Ở lại hai ngày nhận định hiền lâm
Bây giờ Trời đã chúc tâm
Ngày mai lui gót đặt thầm Thành Đô
Được rồi đó nam mô lui gót
Đức tính này nơi chót xem nhìn
Bây giờ vui vẻ đệ huynh
Cho nên nòi giống của mình cao thanh
Buồn chi huynh đệ dung oanh
Ngày mai buồn tẻ vắng NGỌC LÀNH Thành Đô
Còn Ông như thể điểm tô
Vẻ thêm son phấn đem vô Triều Đình
Chị em em chị hiện tình
Có duyên có phận rán mình mà nghe
Rắp tâm thì Phật chở che
Ngày nay con rán đây nè vị ngai
Năm con Gà tiếng còi nó gáy
Biết đâu chừng nó kêu ĐẠI Ó o
Con hiền đừng quá âu lo
Làm tròn bổn phận Phật lo ngôi nhà
Tu hoài trẻ mãi không già
Coi chừng năm Dậu con Gà cửa băng
Vì trong ngoài nước giựt chị Hằng
Làm quên Chú Cuội cung trăng Nam Kỳ
Đến đây tạm dứt thơ thi
Tháng Giêng Ngươn Thượng vậy thì cho con
Bây giờ trong cảnh chèo thoàn
Về nơi về chỗ mong con chim về
Mình buồn mình mở mình nghe
Mình vui mình xách vỏ [ghe vỏ vọt] chạy te lên giồng
Ca Li cũng có đạo đồng
Về đây nghĩ cánh trong lòng KIM [ANH] HƯNG [QUỐC]
Chúc con trẻ nằm khoanh có của
Để sau này sáng sủa mặt mày
Đến đây dứt pháp Ông Hai
A Di Đà Phật chứng ngay cơ mầu.
[Kim = Thái Kim Anh, thế danh của Đức Chưởng Thế Giáo Hội Thiên Trường kiêm Chánh Giáo Bửu Sơn Huỳnh Đạo. Hưng = Hà Hưng Quốc, thế danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên, Ngôi Hai trào tam.]
CHÚ THÍCH:
[1]. Bài này Ông Hai nhắn gởi riêng cho Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền.
[2]. Ông Hai = Ông Hai Láng Linh là nói đến “Cậu Hai Nhu” năm xưa, tức ông Trần Văn Nhu. “Ông sinh ra trong thời buổi đất nước bước vào giai đoạn suy yếu tột độ và thực dân Pháp đang đe dọa xâm lược nước ta. Giữa lúc ấy, triều Nguyễn ra lệnh thực hiện các chính sách đồn điền tại An Giang. Gia đình ông là một trong các di dân lập làng đến An Giang. Lần đầu tiên Phật Thầy Tây An (tên thật Đoàn Minh Huyên) và Đức Cố Quản Trần Văn Thành đã đến trung tâm Láng Linh (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú) lập một trại ruộng để khai khẩn đất hoang, đặt tên là Bửu Hương các (Bửu Hương: tên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; các: ruộng), người dân quen gọi là trại ruộng Phật Thầy (1) (ngày nay ghi là trại ruộng Bà Nguyễn Thị Thạnh ?!). Tài liệu truyền miệng cho biết: Cậu Hai Nhu rất giỏi chữ Nho (chữ Hán) và giỏi võ nghệ. Nhưng không thấy đề cập mức độ khai khẩn vùng đất này. Thậm chí đóng vai trò như thế nào trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa? Chúng ta chỉ nghe nói đến Trần Văn Chái (Tư Chái) và các ông Đội. Nhưng từ sau cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thì trong gia đình Đức cố Quản Trần Văn Thành có hai người đóng vai trò quan trọng trong việc khai phá và mở mang làng Thạnh Mỹ Tây huyện Châu Phú sau này: Bà Nguyễn Thị Thạnh (vợ Quản Cơ Trần Văn Thành) và con trưởng nam: Trần Văn Nhu. Sau cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, gia đình Đức Cố Quản Trần Văn Thành về trú ngụ tại Bửu Hương các mà xưa kia Đức Cố từng khai phá. Vào thời buổi đó chưa có kênh xáng Vịnh Tre (kênh Tri Tôn do Pháp đào vào những năm 30 của Thế kỷ XX) thông vào. Con đường duy nhất đi vào Bửu Hương các lúc này chỉ có rạch Cái Dầu. Sống trong điều kiện khắt nghiệt, hầu như bị cô lập vớí bên ngoài. Nhưng người trong dòng tộc, gia đình và các nghĩa binh kể cả tín đồ trong đạo vẫn trụ được nơi miền đất Láng khắt ngiệt cũng là điều dễ hiểu. Dù không bạo động chống Pháp, nhưng tinh thần không hợp tác với giặc là quan niệm sống của người dân đất Láng vẫn được duy trì khá lâu đối với cư dân vùng đất mới. Lúc đầu nơi đây chỉ có vài gia đình. Về sau số dân trong vùng tăng lên. Nguồn gốc đều là dân tứ xứ đến lập nghiệp. Thực tế cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thất bại và bị đàn áp, nhưng dấu ấn ấy vẫn còn âm vang, người ngưỡng mộ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn đến. Cuộc sống của Ông Hai Nhu không chỉ bình thường, mà ông tiếp tục hành Đạo theo tôn chỉ của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương: phát phù trị bệnh cho dân trong vùng và tiếp tục kết nạp tín đồ bằng phân phát lòng phái, với tờ giấy vàng với bốn chữ son: Bửu Sơn Kỳ Hương. Lúc bấy giờ việc phát phù trị bệnh lôi kéo tín đồ là việc làm nguy hiểm. Vì thực dân Pháp đã nghiêm cấm Đạo Lành (Đạo Thành) hoạt động. Nhưng ông Hai Nhu bất chấp nguy hiểm vẫn tiếp tục hành đạo. Nhiều người mộ đạo đến quy y và lập nghiệp. Xóm Láng ra đời. Ho sống theo tinh thần “đói ăn rau, đau uống thuốc”. Mương Ông – Bà (để chỉ ông Hai Nhu và Bà Cố Quản) được đào để lấy nước uống và sinh hoạt, trồng dâu nuôi tằm. Dần dần dân trong vùng nạo vét nối liền với rạch Cái Dầu. Năm 1899 bà Cố Quản qua đời, ông Trần Văn Nhu tiếp tục chuẩn bị xây dựng Bửu Hương tự. Nhân ngày 22 tháng 2 ÂL (1913), kỷ niệm 40 năm ngày cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thất bại, thực dân Pháp được mật báo, chúng bố trí lực lượng bí mật từ Châu Đốc xuống Cái Dầu và tiến vào đất Láng đàn áp Bửu Hương tự. Qua cuôc bố ráp ấy chúng bắt đi 83 người và triệt phá Bửu Hương tự. Cuối cùng chúng kết án 56 người và đài đi Côn Đảo 20 người. Ông Trần Văn Nhu trốn thoát (2). Ông được người thân cận đưa ra Cái Dầu định đến Campuchia, nhưng không rõ lý do nào đó ông quyết định về Cần Thơ và cuối cùng về Trà Bang (Rạch Giá) rồi mất tại đó năm 1914 (3). Trong dân gian hiện nay có thói quen gọi Bửu Hương tự là chùa Nhà Láng. Vì sao có tên gọi ấy? Theo lời kể các vị bô lão ngày xưa muốn lập làng phải có người đứng ra bảo lãnh và làng phải có đình thần. Vì vậy nhiều người trong đất Láng muốn hợp thức hóa với chính quyền thực dân xin phép lập đình làng Thạnh Mỹ Tây. Trên thực tế là xây dựng Bửu Hương tự. Nhưng do quy mô chùa Láng lúc đó nhỏ, làm bằng tre lá. Theo quan niệm của Bửu Sơn Kỳ Hương là tu tại gia nên chùa nhiều khi là nhà. Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng để tránh sự dòm ngó của chính quyền thực dân nên gọi chùa Nhà Láng. Khi chính quyền đến xét hỏi thì nói đây là nhà chứ không phải là chùa. Láng là xuất phát từ Láng Linh. Vì vậy khi nói đến ông Trần Văn Nhu thì dân trong vùng quen gọi là ông Hai nhà Láng. Suy cho cùng, đối với ông Hai nhà Láng không có những chiến công oanh liệt như Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Nhưng ông đã để lại dấu ấn rất đặc biệt ở vùng Láng Linh không phải từ việc phát phù trị bệnh mà chính là hành động nhân sinh: quy tụ nhiều người đến trú ngụ và lập ra làng Thạnh Mỹ Tây. Ông là một trong những người chủ trương xây dựng Bửu Hương tự mà nay trở thành di tích được xếp hạng cho nhân dân trong vùng và khắp nơi đến chiêm bái và ghi ơn công đức của nghĩa binh Gia Nghị và Quản cơ Trần Văn Thành. Ông xứng đáng được ghi ân như những người có công khai hoang vùng Láng Linh và làm tiền đề cho sự phát triển vùng sâu thuộc huyện Châu Phú sau này.” Trích nguyên văn bài “Ông Hai Nhà Láng” của tác giả Võ Thành Phương đăng trên trang nhà của Bửu Sơn Kỳ Hương Nguyên Thủy.
Pháp Âm #108
Thản nhiên không vướng khỏi khấn hương
Tâm không cách biệt lý vô ngã
Thấy không không thấy mời tòa chương
Tâm đắc huệ khai không mà trụ
Trụ không không trụ [hạt] giống khỏi ương [gieo]
Vạn vật quanh ta đều báo ứng
Ngó mà không ngó lòng chẳng ươn [có mùi hôi]
Muôn nẻo khó khăn tâm làm chủ
Tâm ngó rất ngay ấy Phật đường
Phàm căn chưa dứt bao điều khổ
Bởi vì vạn vật kéo tai ương
Mắt huệ thần minh không ngẫm tới
Tự đến tự đi chẳng đo lường
Khi xưa các Tổ ngộ y pháp
Tâm tục như như huệ thông thương
Tâm bình tâm định khai sáu thức
Khỏi phải lo âu kiếp nắng sương
Một chiều ngáp mãi cỏ hồn thân
Ngày nay TRUNG ƯƠNG sắp đến gần
Chuyển xây thanh điển cận nhiệm vụ
Tịnh huệ trí khai lãnh mọi phần
Long mạch NGUYỆT THIÊN HUỲNH KỲ dựng
Ngưỡng cửa non Đoài [Tây, Hoa Kỳ] hội long lân
Qui mệnh SỨ QUÂN CƠ THÁNH ĐỨC
Lược sách sử kinh định cung căn.
An phần mở rộng gia vi
Xuất thân xuất địa xuất nghi Triều Đình [Triều Đình Đạo]
NGŨ NƯƠNG xây chuyển thâm ân
QUỐC VƯƠNG thủy thổ vạn lần thâm bâu
Thiên Cơ gấp rút kiếu [kêu] câu
KỲ HƯƠNG vạch rõ đường hầu Nam Bang
TRUNG ƯƠNG đất Phật An Giang
Tuồng đời cát phận lớp lang phụng hoàng
CỘNG ĐỒNG [TAM GIÁO] vạch định HÀ xan
GOM CÂU XÃ TẮC GÌN ĐÀNG TỨ ÂN.
[Ngũ Nương = Ngũ Nương Diêu Trì Cung. Trách nhiệm của Ngũ Nương là tiếp dẫn các chơn hồn lên tầng trời Xích Thiên là tầng Trời thứ năm. Tôn danh của Ngũ Nương là Thượng Thiên Thánh Mẫu. Đạo hiệu của Ngũ Nương là Liễu Hạnh Tiên Tử. Pháp khí của Ngũ Nương là Như Ý.]
Ngồi buồn mà kiếm quạt mo
Nước xuôi nước ngược vo vo lướt thuyền
Tâm kinh nắm vận binh quyền
Quyết phò QUỐC ĐẠO Thánh Tiên dựa kề
Cõi lòng tiếc thấy ủ ê
Nặng mang hai chữ giác mê giống nòi
Hồn Thiên chưa có chỗ ngồi
Lâm phàm hạ tục thiệt thòi vẫn vui
Bởi vì sanh chúng nhát mùi
Trầm luân khổ ải tới lui độ đời.
Gặt hái nhiều niên bởi LỊNH TRỜI
Thâm trầm vẻ mặt giọng ầu ơi
Thân tướng đôi khi mang vất vả
Phật Tiên điểm hòa bủa cảnh đời
Cửu Cung THIÊN LỊNH ấn Kim Thơ
Hồn Thiên thui thủi chuyển nhiều nơi
Ngậm đắng ăn cay nhờ Phật lực
Giảm hồi nạn ách đợi chơi vơi.
Biển đời cá bống lại cá kèo
Ánh đèn thắp sáng cheo leo tỏ tường
Đường trôi dấu thỏ thương thương
Người tu lập pháp quê hương nhận nhìn.
Đời cũng xây tận kiếp HUYỀN THIÊN
Thương người tu tỉnh thị sĩ hiền
LÃO khắp bước chân dang tay đón
Hướng Phật tâm từ mới đặng yên
Mang nặng lục căn không lối thoát
Chậm trễ lục trần chịu ngửa nghiêng.
Nêu phận danh THIÊN trải bao đời
Phàm tục giáng lâm quyết mở lời
Trọng trách hồn thăng thương đại chúng
Người đắm lợi quyền nghĩa se lơi
Ngã Phật mầu linh đơn thuần ngẫm
Khó nỗi định ra được chỗ ngồi
Nhất tâm bất loạn lòng không động
Chí cả tu mi mới kịp thời
Nam mô thì bồ tát tai niệm niệm
Sanh nghiệp kiếp này phải trả chiều mơi.
Kiếm khách ô long xích phụng xòe
Bình minh thỏ thẻ tiếng vo ve
Vạn vật hồn thiên chào thân thiện
Huyền pháp cơ trời đất chở che
Dinh nội tiền trào an bang xứ
Áo vải ah tài dở tùng nghe
Thiên lý dị nhiên khâm sai sứ
Bửu bửu pháp thương rải thè thè.
Bấm Vào Thanh Để Nghe
Pháp Âm #109
Trải mật nằm gan tâm cố lỳ
Kiếp trước đời sau chịu phúc ky
Quyết đem chơn pháp nơi Phật cảnh
Giáo hứng nhân duyên tới đặng chi
Trời đất mênh mông tuy không bóng
Bởi thế vô hình chịu huyền vi
Lặng lẽ xác na âm thinh trổi
Phải cổ nghi binh thật từ bi
Lui gót phàm gian gìn Thích đạo
LẠC THÁNH vi tường DỰNG HỘI ghi.
Bấm Vào Thanh Để Nghe
Pháp Âm #110
Một tấm lòng và một xác thân
Ý Thiên Tính Phật đã hầu gần
Chúng sanh cõi tạm cùng quý quyến
Khó chi họa đồ mệnh bần tăng
Thất tâm khai mở luồng quang nhãn
Hiểu kỹ chốn xưa Phật Thánh gần
Cứ mãi đeo mang vòng ngũ uẩn
Chẳng thoát lưới quanh phải nhọc nhằn
Cuộc đời hành đạo đem thân hiến
Ngấm ngầm luân chuyển dựng PHONG THẦN.
Trọn đời trọn kiếp hiến PHẬT MÔN
Trần tục Ngươn Tam chiếu Thiên Hồn
Định hướng ngã nhân lòng minh thệ
Ẩn ý tiêu diêu vượt Càn Khôn
Ô long xích phụng xoè dang cánh
Đùm bọc pháp mầu LỊNH CHÍ TÔN
Dầu giải nắng mưa an bình chí
Thanh nhật Thiên Y vượt sóng dồn.
Thâm trầm kết tựu quả kim giai
Mộc Thủy xây chung sức sống dài
Thổ phanh lan rộng bàn cờ tự
THẤT NƯƠNG mầu nhiệm tới dựng rày
CỬU VỊ LIÊN TÒA khai chín phẩm
Thúc giả bốn phương CỬU TRÙNG ĐÀI.
[Thất Nương của Diêu Trì Cung. Trách nhiệm của Thất Nương là tiếp dẫn các chơn hồn lên tầng trời Hạo Thiên là tầng Trời thứ bảy. Tôn danh của Thất Nương là Âm Quang Tiếp Dẫn Đạo Nhơn. Đạo hiệu của Thất Nương là Lễ Hương Tiên Tử. Pháp khí của Thất Nương là đóa Hoa Sen Hồng.]
Mấu chốt then Thiên cửa an bày
Người vì trung nghĩa đợi ngày mai
Gởi tâm thuần thục công đức Phật
Đáp lễ Tứ Ân hướng sen đài
Tinh thần phổ hóa cơ duyên phận
Thánh Đạo long môn trí tuệ khai
Lòng Trời lòng Phật lòng Thánh bủa
Nước tưới cam lồ tịnh ma ha
Qui cách mạch cung hương đăng quả
Minh triết bốn mùa tạng bắp khoai.
Thầm lặng kỳ êm giữa phận mình
Thanh thiên bạch nhựt rõ lòng QUYÊN [QUỐC]
Tuổi đời phận đạo đều đúng buổi
Khác ý ngõ làng lộ TÂN yên
Bổn phận bổn căn khuôn bổn cũ
Bổn tuồng thui thủi dạ triền miên
Thôn dã ngọ môn lòng thôn dã
Gói hết phận mình trải cành khuyên.
Lướt sóng phong ba vượt biển đời
Chăm lo đạo quả THÁNH trị đời
Hoa cảnh chậu vô thiên niên ái
Thoát chốn bể dâu phận y lời
Khâm thủ Quân Ân đa phương xử
Kiểng tiên chạm giả mới khai thời
Tam Giáo Quy Nguyên thời mở cửa
Quản sớm mưa Tần chịu ra khơi.
Gió chiều lồng lộng tiếng vo ve
Hồn đọng khuôn in đọc thơ vè
Tìm về tới đâu khai đường kẻ
Đỉnh cao cao quá muốn được nghe
Hạ giới giáng lâm thầm vời vợi
Dụng ý hồn Tiên cảnh Thu đè
Cuộc đời ngao ngán cam đành dạ
Tích sống xác phàm Phật chở che
Thế trần lãm tư thư hàng đọc
Liên hoàn tóc rối chẳng bày phe
Ngắn ngủi thời gian trang hiền sĩ
Dựng bảng căng buồm có mấy ve
Gởi gió đợi mây sao kỳ dậy
Thông mạch nghìn thu phủi thế già
Câu nói Đông du điều phải trái
Tiêu diêu tự tại khó tránh nè
Trời chuyển mùa Thu đùng đùng báo
Nóng lạnh tứ thời ruộng trong se.
Thân phận đa phương cảnh sum vầy
Văn bài tâm ý tỏ rất hay [1]
Tri cảm linh quang đồng nghĩa cử
San sớt bảo tồn cảm nghĩ hay
Hội yến luôn xây đâu màn xác
Trổi giọng chiều nay thấy chẳng sai.
CHÚ THÍCH:
[1]. Ám chỉ bài pháp mà Đức Hoàng Di Thiên thuyết giảng cho môn đệ nghe ngày hôm trước.
Bấm Vào Thanh Để Nghe
Pháp Âm #111
Khoảnh khắc hồn thiên cơ đổi hình
Sắc khai tướng mạo trí khuôn in
Đất nước giang san chờ thiện chí
Thiền tỏa huệ thông phá vô minh
Luân chuyển tuệ căn là phương thuốc
Chứa bao người lành độ chúng sinh
Họa đồ tướng sắc đổi Luật Thiên
Dọn nước cờ Tiên chẳng đánh liền
Mầm đạo xoay quanh chờ thời vận
Đất ruộng biên thùy khắp thiêng liêng
Tam quan ải nhất GIÀ LAM trấn
CHÚA XỨ NGUYÊN NHUNG trấn ngự yên
NGŨ HÀNH gom mối khai sức sống
Bủa ĐẠO VÔ VI khắp trần miền
Đại Hội Phật Xưa ĐỨC HẢO HÒA
Xa gần trăm họ khách phương xa
Bước tới Lễ Nghi NGÀI trọng trách
TỨ PHỦ tròn ân dựng CỜ GIÀ
Phật Thích TÂY SƠN THẦY truyền đạt
THÁNH ĐẠI quy y trọn đủ căn
Bốn loại Tứ Ân ơn đền trả
Tứ Diệu Đế đúng một màu CHA.
Bền tâm chặt dạ nhứt trí tâm
Trí tâm chặt dạ chỉ tâm sầu
Sầu tư vướng bận sầu tâm lụy
Lụy vạn lần phải lắm cơ duyên
Cơ duyên tạo hóa khắp năm châu
Lòng ai khóc kẻ sầu bi thảm
Thảm kịch lụy trần đáng giá thay
Tri tâm nhất trí ra màn kịch
Đoạn cuối vở tuồng mới biết hay.