PHẦN BÀI: Tất cả có 23 khổ thơ lục bát mỗi khổ 4 câu, trích từ thiên thơ ĐỆ TAM THỜI KỲ - ĐINH DẬU 2017 (Phần 3) đăng trên phatdilacnhapthe.com bút ký VÔ DANH THỊ. Chúng tôi chưa từng biết bất cứ ai của diễn đàn này.
PHẦN HỌA: Tất cả có 23 khổ thơ lục bát, mỗi khổ 4 câu, HỌA lại từng khổ thơ của phần BÀI tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn.
Hiệp Thiên Huyền Nam Phương Vũ, Thánh Đàn Long Ẩn, Saint Louis, MO, tiếp nhận thông điệp của Huyền Không Thiên Thượng và gởi thiên thơ này đến Đức Ngài vào ngày 6 tháng 3 năm 2017.
KHẢI LỘ THỜI KỲ TRÀO TAM XUẤT THẾ
Bài:
"Bốn mươi năm lẻ trả xong [45 năm trả nợ đời]
Cơ Trời phượng gáy [năm Dậu 2017] thì Rồng hiện ra [hiện thân khai Đạo]
Về Nam tu chính [bản thân], SƠN HÀ [Sơn Liên, Sen Núi]
Theo Trời thờ Phật, QUỐC gia lái thuyền [đạo]."
[BỐN MƯƠI NĂM LẺ = 40 chẵn + 5 lẻ, tức 45. TRẢ XONG = Trả xong nợ đời. BỐN MƯƠI NĂM LẺ TRẢ XONG = 45 năm trả xong nợ đời, tính từ mốc Đinh Dậu 2017 trở về trước, còn 2017 trở về sau là lo việc đạo. [Năm 2017 Đức Ngài Hoàng Di Thiên đúng 63 tuổi. Năm 18 tuổi lìa xa mái trường vào quân ngũ, bắt đầu trả nghiệp. Chính xác 45 năm Đức Ngài trôi lăn trong đời.] CƠ TRỜI PHƯỢNG GÁY THÌ RỒNG HIỆN RA = Thiên Cơ đúng năm Dậu 2017 thì Rồng (một nam tử hậu duệ Tiên Rồng lãnh sứ mạng) sẽ hiện thân. [Đức Ngài được lịnh lìa Thổ Đầu Sơn xuống núi khai triển Cơ Thiên: lập LỊNH, khai CƠ, khai HỘI, và sau đó là khai GIÁO.] VỀ NAM TU CHÍNH = Về Việt Nam tu chỉnh bản thân. [Thiên Thượng dẫn Đức Ngài lên núi Thổ Đầu Sơn tu luyện một thời gian.] SƠN HÀ THEO TRỜI THỜ PHẬT = Ông SƠN HÀ theo Trời mà thờ Phật, tức là dang hai tay ôm cả Phật Trời. [Sơn Hà là hiệu của Đức Ngài.] QUỐC GIA LÁI THUYỀN = Ông QUỐC lèo lái con thuyền. [Quốc là tên của Đức Ngài. Xuống núi là Đức Ngài bắt đầu lèo lái Con Thuyền Đại Đạo của Phật Trời. Bửu Sơn Huỳnh Đạo (Phật) và Cao Đài Vô Vi Huyền Không Đại Đạo (Trời) đồng hòa lập Giáo Hội Thiên Trường (Ngôi Nhà chung), và hậu thân của GHTT là Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, chính thức khai giáo vào ngày 18/3 âm lịch năm Giáp Thìn theo sắc chỉ của Đức Chí Tôn.
HÀ QUỐC = Hà là họ, Quốc là tên của Đức Ngài. Chư vị vô hình trên Huyền Không Thiên Thượng còn dùng các chữ "cận nghĩa" với chữ HÀ bộ Thủy để ám chỉ Đức Ngài. Đó là nhóm chữ Giang, Hà, Hồ, Hải, Lưu Bích (dòng xanh). SƠN HÀ = Chư vị vô hình trên Huyền Không Thiên Thượng cũng dùng chữ HÀ bộ Thảo phát âm là HẠ có nghĩa là LIÊN, SEN để ám chỉ Đức Ngài. Chữ SƠN HÀ (Hà bộ Thảo) đồng nghĩa với chữ SƠN LIÊN (Sen Núi) và cả hai đều được dùng để ám chỉ Đức Ngài (còn SƠN TÙNG là hiệu của Phật Thầy Tây An). Sở dĩ có chữ SƠN LIÊN để ám chỉ Đức Ngài là vì có một bài thơ mà Đức Ngài đã sáng tác lúc còn là học sinh Đệ Tứ, trong nội dung có đoạn "...Ta là tất cả cũng không là tất cả, là ao bùn nở hoa cánh hồng nhung lá xám, là núi cao sỏi đá trỗ cánh trắng sen đêm...". Núi cao sỏi đá trỗ cánh trắng sen đêm chính là đóa SƠN LIÊN.
Quan trọng hơn là thông tin ẩn trong hai câu 3 & 4 của khổ thi trên. Quan trọng vì nó có "ẩn những mật lệnh". Dang hai tay ra ôm lấy Phật Trời là tượng hình của chữ MIÊN 宀 . Ý Nghĩa: Hai mái nhà trước sau giáp nhau. Trong ngữ cảnh Đạo thì đây là "hai mái nhà Đạo phải giáp biên thành một mái liền". Đây là mật lệnh. Lái thuyền/chèo thuyền là tượng hình của chữ TẤT 必 . Ý Nghĩa: Nhất định phải thế. Trong ngữ cảnh của Đạo thì là "nhất định phải như thế , không được canh cải ý chỉ của Đức Chí Tôn". Đây cũng là mật lệnh. Chữ SƠN 山 nghĩa là Núi biểu tượng cho sự kiên định và vững chắc. Trong ngữ cảnh Đạo thì có nghĩa là "không được chao đảo". Đây cũng là một mật lệnh. Hợp tự của 3 chữ MIÊN + TẤT + SƠN thành chữ MẬT 密 . Ý Nghĩa: Bí mật, không cho người ngoài cuộc biết. Đây cũng là một mật lệnh. Toàn thể nội dung mật lệnh gom lại như sau: "Hai mái nhà Đạo phải giáp biên thành một mái liền để che Ngôi Nhà Chung. Nhất định phải như thế, không được canh cải ý chỉ của Đức Chí Tôn. Không được chao đảo. Không cho người ngoài cuộc biết."
Lời căn dặn Đức Ngài không nên giải mã mật lệnh trong thiên thơ này là vào thời điểm 2017. Nay đã đến lúc "vẹt màn the" cứu bá tánh cho nên Đức Ngài quyết định giải mã cho bá tánh thấy hiểu rõ ràng Thiên Cơ để mà vững lòng tin nơi Trời Phật, lo tu hành ráo riết để tự cứu bản thân trong buổi tàn ngươn.]
Họa:
"PHẬT VƯƠNG DI LẠC sấm truyền
Phương Nam trực chỉ liên thuyền hiện thân
Nam Triều PHẬT QUỐC đức ân
NGỌC HOÀNG CHIẾU ĐIỂN hồng ân hiện tiền."
Bài:
"Các động Bồ Tát Chư Tiên
Xuống chầu GIÁO CHỦ binh quyền LONG HOA
Từ Bi [Phật] Bác Ái [Chúa] nước nhà
Hiền tài xứ xứ khúc ca khải hoàn."
[TỪ BI BÁC ÁI = Có nghĩa là "Tay Phật tay Chúa chấp chung"; Và Đấng xuống thế kỳ này để thực hiện "Tay Phật tay Chúa chấp chung" chính là Đức Thiên Phật.]
Họa:
"BÁT VƯƠNG TIÊN ĐẠI vạn toàn
HUYỀN KHÔNG CHUYỂN ĐỘNG hoàn cầu gồm thâu
Đại Từ [Phật] Bác Ái [Chúa] BỬU CHÂU [tại vùng đất Bảo Châu, ám chỉ Golden State, Cali]
Vận hành Cửa Lớn [Đại Đạo Môn của Ngôi Nhà Lớn Phật+Chúa] một bầu Giang San"
Bài:
"Động Tiên các động Thiên Quang
Thiên Binh mặc giáp Nam Bang khứ hồi
Võ Thần, Thiên Tướng, Thiên Lôi
Đều nghe SẮC LỆNH CỦA TRỜI ra binh."
Họa:
"Bạch thủy vai gánh bên mình
LÔI THIÊN LÔI ĐỊA chúng sinh tỏ tường
Trở về QUỐC ĐẠO TÒA CHƯƠNG
Quang minh NHẬT GIÁO TÒA ĐÌNH xuất chinh."
[BẠCH THỦY VAI GÁNH BÊN MÌNH = Sứ mạng hoằng đạo cứu thế. LÔI = CHẤN, Oai Thinh của TRỜI. LÔI THIÊN LÔI ĐỊA CHÚNG SINH TỎ TƯỜNG = Oai Linh của TRỜI trên cao dưới thấp bốn phương dân chúng đều rõ biết. TRỞ VỀ QUỐC ĐẠO TÒA CHƯƠNG = Tòa Chương của Đạo Quốc trở về Việt Nam. NHẬT = Mặt Trời, biểu tượng của Thượng Đế. NHẬT GIÁO = Đạo Giáo của TRỜI khai lập. QUANG MINH NHẬT GIÁO TÒA ĐÌNH XUẤT CHINH = Tòa Đình ĐẠO TRỜI quang minh chính đại từ phương Tây trở về làm cho bá tánh yên ổn (Cùng một hàm ý với Sấm Trạng: "Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh", tức là từ phương Tây trở về bình thế cuộc.)]
Bài:
"Làm theo PHẬT TỔ bi hình
Từ Bi [Phật] Bác Ái [Chúa] THIÊN [Thiên Phật] sinh [tại] nước nhà
Sợ chi thiên ngoại [xứ ngoài] can qua [mưu toan tranh chiến]
Vô hình trị hữu đó là Thiên Cơ."
[PHẬT thuyết Từ Bi, CHÚA giảng Bác Ái. Đức THIÊN PHẬT ra đời là "Tay Phật tay Chúa chấp chung". Ngài sẽ là đấng thực hiện THIÊN Ý "Mang câu Bác Ái vào nhà Từ Bi". Kim thân (nhục thể) của Ngài là một người sinh ra trên đất Việt.]
Họa:
"Trận Đồ [thiên thơ này] ẩn chứa binh thơ
Can qua chuẩn bị đợi chờ ra tay
Đại Hùng tráng kiện HUỲNH KHAI
CAO ĐÀI THÁI THƯỢNG THIÊN ĐÀI ĐẠO CƠ."
[HUỲNH KHAI CAO ĐÀI THÁI THƯỢNG THIÊN ĐÀI ĐẠO CƠ = Đạo cơ Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba do Cao Đài Thái Thượng khai lập.]
Bài:
"Phụng trên [Dậu 2017] nằm ấp [trứng] đợi chờ
LỆNH TRỜI mở cửa THIÊN CƠ TAM KỲ
Cách vật mới biết trí tri (bi)
Cơ Trời đi dẹp phương Di (ni) [phương Nam] tà thần."
[PHỤNG TRÊN = Năm Dậu 2017 (phụng dưới là năm Dậu 2029). NẰM ẤP = nằm ấp trứng, ý nói cơ đạo còn trong giai đoạn phôi thai cần thời gian cho nó thành hình và phải tiếp tục đắp nền cho đến khi cứng cáp. ĐỢI CHỜ LỆNH TRỜI MỞ CỬA THIÊN CƠ TAM KỲ = Phải chờ cho đến khi có LỊNH của THIÊN HOÀNG cho phép "mở cửa" để thuyền ra khơi thì lúc đó mới đến lúc "Tòa Đình xuất chinh". PHUONG DI = Phương Nam. Ngày xưa Trung Quốc coi mình là trung tâm văn minh của mặt đất và gọi các dân tộc khác là Bắc Rợ, Nam Di, Tây Bộc, Đông Man.]
Họa:
"Sấm vang khắp nẽo xa gần
HUỲNH LONG HẮC ĐẾ nỏ thần truyền trao
LỆNH TRÊN trực chỉ TAM TRÀO
Long Lân Quy Phụng vào chầu trước Sân."
[HUỲNH LONG = Di Lạc. HẮC ĐẾ = Huyền Thiên Thượng Đế. HUỲNH LONG HẮC ĐẾ = Di Lạc Huyền Thiên; Di Lạc và Huyền Thiên Thượng Đế tuy hai nhưng là một, "Chiết lần ba chuyển thể Ngọc Hoàng, tá danh Di Lạc trần gian, Minh Thiên là hiệu Minh Hoàng là danh" (Trích Ngọc Kinh 3). NỎ THẦN TRUYỀN TRAO = Truyền trao chủ quyền nước Việt. LỆNH TRÊN = Lệnh của Bề Trên. TRỰC CHỈ TAM TRÀO = Hãy thẳng đến chỗ Trào Tam. TRÀO = Nơi thiết lập Triều Nghi của Đại Đạo. TAM TRÀO = Trào Tam, Trào thứ Ba. Trào Một là thời kỳ của Đức Ngài Giáo Chủ Cao Đài Ngôi Hai Ngô Văn Chiêu. Trào Hai là thời kỳ của Đức Ngài Giáo Chủ Cao Đài Nhị Thiên Võ Văn Phẩm. Trào Ba là thời kỳ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên Giáo Tông Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba. LONG LÂN QUI PHỤNG = Các bậc tài đức trong đời.]
Bài:
"Phụng về Phụng lại rước Lân [Mã]
Các bầy Sư Tử Binh Thần hát ca
Nam Bang PHẬT QUỐC hiện ra
Con Rùa dâng địa QUỐC gia Lục Điền
[PHỤNG VỀ PHỤNG LẠI RƯỚC LÂN = Năm Dậu 2017 (phụng = gà) mốc đánh dấu thứ nhất, tới năm Ngọ 2026 (lân = mã) là mốc đánh dấu thứ hai. CÁC BẦY SƯ TỬ BINH THẦN MÚA CA = Ý nói các lực lượng quân sự giương nanh múa vuốt khắp nơi trên thế giới. NAM BANG PHẬT QUỐC HIỆN RA = tới lúc Phật Quốc hiện thân tại Nam Bang Thánh Địa là mốc đánh dấu thứ ba. CON RÙA DÂNG ĐỊA QUỐC GIA LỤC ĐIỀN = Sẽ trồi lên một hải đảo to bằng Lục Tỉnh xưa (23 tỉnh Miền Nam ngày nay), là vùng đất RÙA THẦN dâng cho PHẬT QUỐC và trở thành Nam Bang Thánh Địa ngày sau.]
Họa:
"Trạch Đông [đất phương Đông] gọi Đế tam miền
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO vùng miền gần xa
LỆNH NÀY theo [chiếu] chỉ [của] VUA CHA [THƯỢNG ĐẾ]
LẬP ĐÀI CƠ ĐẠO [Lập Cơ Đạo Cao Đài] hát ca tam miền"
[THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO... LỆNH NÀY THEO CHIẾU CHỈ VUA CHA LẬP ĐÀI CƠ ĐẠO = Lệnh khai lập Thiên Khai Huỳnh Đạo Vô Vi Kỳ Ba, cũng là Cao Đài Vô Vi Kỳ Ba đồng hòa lập với Bửu Sơn Huỳnh Đạo, là theo chiếu chỉ của CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ.]
Bài:
"Di cư vào đất TRỜI THIÊN [Nam Bang Thánh Địa]
Trời giao DI LẠC chủ quyền Nam Bang [chủ quyền Thánh Địa]
CON RÙA [hải đảo lớn ngày sau nổi lên trở thành Thánh Địa] ưa thích giàu sang
Nên thân pháp nó ĐỀN VÀNG [Bạch Ngọc Kinh dưới thế] hiện ra [được kiến tạo trên đão].
Họa:
"Điển Thiên trực chiếu NĂM GÀ [Dậu 2029]
Long thiên long địa Ta Bà Càn Khôn
Truyền lưu TÒA THÁNH [Bạch Ngọc Kinh dưới thế] trường tồn
Gồm thâu bốn biển bảo tồn quốc gia."
Bài:
"Thiên Long Bát Bộ giữ nhà
Tề Thiên, Dương Tiễn tề gia bảo trì
Quan Thánh, Lý Tịnh tư duy
Cầm binh điền tướng Na Tra binh phòng."
Họa:
"Việt Nam QUỐC TỔ VUA HÙNG [LẠC LONG QUÂN]
Thân mang xứng mạng CỬU TRÙNG TRUYỀN TRAO [Thiên mệnh Trời trao Lạc Long Quân]
Kim thân [nhục thân của LLQ hiện nay] định sẵn Thạch Bào [đã có ánh sáng hộ thể]
Thần Kinh Thái Ất [nguyên linh của Trạng Trình] kỉnh chào ĐẠO ÔNG [là LLQ trở lại]."
Bài:
THÁI ẤT THÁI THƯỢNG [Thái Ất Thiên Tôn] tiên phong
NAM CỰC [Nam Cực Đại Tiên] cỡi hạc, QUÁN ÂM [Bồ Tát] tọa thiền
LỆNH TRỜI ba sáu [36] động Tiên
Bảy hai [72] động Tướng Thần [cho] quyền thao quân.
Họa
"Từng Không chuyển kiếp báo dân [từ Thiên Thượng chuyển kiếp xuống thế, báo cho dân biết]
[Đức Ngài] Xuống đây theo [minh] ước Ngọc Đài Liên Ninh
Tịnh bình trực chỉ bên mình [bí pháp luyện đạo độ thế luôn mang bên người]
Cùng chung dòng giống Vua Hùng – Quang Trung" [Đức Ngài là dân Việt]
Bài:
"Xuống phò CON CỦA TRỜI [Ngôi Hai] chung
Thay bầu vũ trụ tảo khung THIÊN HÀ
THIÊN TRIỀU mở cửa nhìn qua
Để xem Xích Đạo người ta dương trần."
Họa:
"Mọi miền Lục Tỉnh xa gần
Tám châu sáu quận dương trần còn đây
Họa hình võ trụ chuyển xoay
MỘC THIÊN NHÂN [Thầy Nhân Thập] đến hiện dần tứ thân [thân tứ đại]."
Bài:
"ĐỂ THI PHÉP THUẬT TÀI NHÂN
Coi mười tám nước ngũ phân tam quyền
NGỌC HOÀNG HẢI HỘI THẦN TIÊN
NGỒI XEM khí tượng tại miền thế gian."
Họa:
"Thân tâm PHÁP GIÁO RÕ RÀNG
TAM HOÀNG [Hoàng Giáo Trào Tam] TRỞ LẠI LẬP ĐÀI THƯỢNG NGƯƠN
Gian lao dâu bể không sờn
Điều hành võ trụ BỬU SƠN [PHẬT] tiếp THẦY [THƯỢNG ĐẾ]."
Bài:
"Trung Thiên mở cửa, TAM HOÀNG [Hoàng Giáo Trào Tam]
Cùng ngồi coi việc thế gian Tam Kỳ [Kỳ Tam]
Đội banh mười tám nước thi [18 là con số đại diện cho số nhiều chứ không hẳn phải là 18]
Coi ai đắc trí thành tri [biết][ông] THIÊN [họ] HÀ."
Họa:
"Trời Nam đáo cửa Ta Bà [xuống thế tại nước Nam Việt]
Nước Nam lạp Việt NĂM GÀ [2017] CHUYỂN XOAY
Ứng THIÊN trực tiếp [nhận] ĐIỂN THẦY
Đoán xem vận số bên này can qua."
Bài:
"Địa Tiên binh pháp tài ba
Thiên La giăng lưới nhận xa cùng TRỜI
Dàn binh tập trận khắp nơi
Không gọi thiên thời mà gọi chi đây?"
Họa:
"HOA THIÊN nhân địa đủ đầy
Ra tay trợ lực THIÊN ĐÀI GỒM THÂU
THÁI THƯỢNG MẪU MẸ một bầu
Sinh linh đồ thán lo rầu có hay?!!!"
Bài:
"Bàn [cờ] Thiên xe pháo đủ đầy
Nhìn xem đẹp lạ mấy thầy được coi
Tiên Thần mây bạc Phong Lôi
Đằng vân xuống thế ngồi coi ba màn [màn ba, thời nay]."
Họa:
"Gói khăn chuyển động LẬP ĐÀN
Dàn trận THIÊN ĐẠI [Đức Ngài] ứng đài NAM THIÊN [Trời Nam]
Gọi mời sứ giả mọi miền
Xuống trần THỦY HỘI MỐI GIỀNG TRÀO TAM."
Bài:
"Để coi TAM GIÁO không gian
Màn Ba thi cử phong Quan phong Thần
LONG VÂN hải hội PHONG VÂN
Là PHONG THẦN DIỄN Tiên Thần thế gian."
Họa:
"LẬP ĐÀI THƯỢNG ĐẠI THIÊN CAN
Quần hùng xuất trận HỘI VÀNG tiến lên
TRỜI [ông THIÊN] mây SÔNG [HÀ] nước vững bền [Thiên Hà = ông Thiên họ Hà]
Đồ thư ẩn ý gọi ĐỀN TÂY AN. [gọi Tòa Đình Cali là Đền Tây An, Trường An phương Tây]"
Bài:
"To lòng, lớn ý, bự gan
Nhịn nhường không nổi đổi sang binh quyền [sử dụng vũ lực]
Tranh tài [nguyên], tranh lợi [ích], tranh biên [tranh hải phận]
Rồi tranh thế nước tranh [với][ông] TIÊN THIÊN HÀ."
Họa
"Thời gian đâu có bao xa
QUỐC gia THIÊN trước [Thiên Quốc] bá gia rõ rồi
Tinh khôi đã tính nước đôi [chính sách đu dây]
Đến hồi mạc vận thì rồi Quốc Gia [Nước Việt]."
[QUỐC GIA = Là ông (gia) tên Quốc. THIÊN TRƯỚC = Chữ Thiên đứng phía trước. QUỐC GIA THIÊN TRƯỚC = Ông Quốc có chữ Thiên đứng phía trước = ông Thiên Quốc, thiên danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]
Bài:
"Cũng vì kho ngọc [các quần đảo], Hằng Nga [Bằng, bạn; ý nói Nước Bạn]
Vì TIÊN QUÁ SẮC [vì tiền] [mà] Hằng Nga [Nước Bạn] điên đầu
RỒNG sanh để giỡn với châu [các quần đảo là các hạt châu của dân Tiên Rồng]
Tranh châu [muốn đoạt các quần đảo] không đặng [thì] đi chầu Diêm Vương."
Họa:
"SẤM TRẠNG [TRÌNH] đã viết tỏ tường
TÒA CHƯƠNG XUẤT THẾ là đường THIÊN KHAI
VÔ VI đã định ấn bài
Còn chi mà gượng Liên Đài không nương."
Bài:
"Hằng Nga [Nước Bạn Nga] [từ Bắc Á] xuống giúp NHÀ THƯƠNG [Nước Bạn Tàu]
Làm cho CHÚ CUỘI [Nước Mỹ] không đường thảnh thơi
Nên chi giận quá phá trời [Mỹ giận quá phá khả năng phòng không bảo vệ bầu trời]
Cây Đa [Bom chùm hủy diệt diện rộng] rớt xuống TÁM NƠI CHÌM THUYỀN."
[CÂY ĐA = Gỗ không sử dụng để xây dựng, chỉ có thể để đốt. TÁM NƠI CHÌM THUYỀN = Tám hải đảo (có căn cứ quân sự của Trung Quốc) trên Biển Đông sẽ bị hủy diệt. Ba khổ thơ liên tiếp đang nói về tranh chấp các đảo. Các hải đảo giống như các con thuyền trên biển cho nên chữ "chìm thuyền" là để mô tả các hải đảo.]
Họa:
"HUYỀN KHÔNG [THIÊN ĐẠO] đã [giáng] xuống dương trần
Phúc đáp mấy chữ nói gần nói xa
Trung tâm vũ trụ Ta Bà
Thần minh diệu đoán [biết rõ thiên cơ] cũng là [ông] HÀ TIÊN.
Bài:
"Bắc Hà [Phú Quốc-Hà Tiên] biến dạng ngủ yên
Nhìn trời không thấy Bắc [Đẩu] Tiên nơi nào [đổi trục, hướng Bắc không thấy Bắc Đẩu nữa]
Nên chi TRỜI HỨA RÙA TRAO [cho nên Hòn Đảo lớn nổi lên]
Trao PHẬT DI LẠC, Nam Trào Chủ Gia." [Đảo này trở thành Nam Bang Thánh Địa của Di Lạc]
[BẮC HÀ = là "BẮC ngôi Càn vị HÀ Tiên, Tiền Trung Hậu hiệp mối giềng qui căn... Hườn Nguyên tại cảnh BẮC HÀ, Cơ Đồ phản bổn đó là hiển nhiên." (Trích: Đại Đạo Luận của Cao Đài, trang 44). BẮC HÀ là địa danh mà Thiên Thượng đặt cho Phú Quốc. Tại sao một vùng đất cực Nam của tổ quốc lại được Thiên Thượng coi là Bắc? Thưa hiện nay thì là Nam nhưng sau khi trái đất đảo trục thì nó sẽ thành Bắc, và lúc đó nhìn về Bắc Cực mới sẽ không thấy sao Bắc Đẩu.]
Họa:
"Nước nhà đang gọi gần xa
Về Nam giúp PHẬT [thành lập] QUỐC GIA DI ĐÀ
Uống chung dòng điển SƠN HÀ [với ông SƠN HÀ]
Bới chung gốc cội Đinh Gà [Dậu 2017] bá gia."
Bài:
"CUỘI [Nước Mỹ] về trời mất CÂY ĐA [vị thế lãnh đạo, Cây Đa Cây Đề]
Hai Trăng [Nước Bạn] lại mọc thêm bà vợ hai [có đồng minh khác]
THIÊN cơ TRỜI sắp THIÊN tài
Ngạc nhiên cho lắm không ai cãi TRỜI."
[HAI TRĂNG LẠI MỌC THÊM BÀ VỢ HAI = Chữ Sáng. Hai Trăng mà thêm Hai Trăng nữa (tức 4 chữ Nguyệt) hợp tự thành chữ LÃNG 朤 nghĩa là Sáng. Nguyệt (Trăng) thường được ví với người phụ nữ (cụm chữ "trêu hoa ghẹo nguyệt" là thí dụ), và trong câu này BÀ VỢ HAI là nói chữ Nguyệt (Trăng). Luận cứ này càng rõ ràng hơn nữa vì trong câu có chữ MỌC THÊM tức là Trăng mọc thêm Trăng. Toàn bộ câu hai thành chữ Sáng hợp với chữ Trời ở câu một thành "trời sáng".]
Hoạ:
"Giải bài tường tận vậy thời
Kiêu hùng thúc gọi cho mời hậu lai
Trở về Nam Cực định quê [Cực Nam của nước Việt = Hà Tiên, Cà Mau]
Là Tiên Xích Đế lời thơ trận đồ."
Bài:
Thập Nhị Công Chúa vâng lời
Bang giao để gả CON TRỜI nhà Nam
Tạo Thiên lập Địa ai làm [Lão Tử làm, đọc Dưới Bóng Cội Tùng]
Thiên cơ số định NHÀ NAM [được] CHÂN TRUYỀN." [được chân truyền Đạo Pháp]
Họa:
"THUYỀN [ĐẠO] về MẸ rước thuận duyên
NHỊ ÔNG [NGÔI HAI] tiên cảnh đáp liền câu thơ
Phụng thờ NGÔI BÁU đồ thơ
Đợi chờ con Lạc cháu Hồng long lân."
Bài:
"Hiền Thần ở các Động Tiên
Xuống nhà trợ trị, Tiên hiền trợ phong
Bảy hai, ba sáu lục thông
Làm cho bình trị tiên phong nước nhà."
Họa:
"Can qua động đến Thích Ca
Ngũ Đầu hiện tướng chào CHA gọi THẦY
Phong ba chuyển động khắp trời
Đoàn binh Phúc Trọng ngai vàng bảo ra."
Bài:
"Ngũ Chi điệp Thái Bình Ca
Còn hàng TAM GIÁO THỜ CHA NHÀ TRỜI
Thái Bình PHONG THÁNH Nam Trời
PHẬT VƯƠNG nhiếp chánh Tân Trời Quốc Gia."
Họa:
"Ta là NGỌC ĐẾ ĐẠI HOA
Cùng đoàn HẢI HỘI LONG HOA mở màn
[Hãy] Lập đàn bái tạ PHẬT HOÀNG
Về chầu ĐẠI ĐẾ rộn ràng gần xa."
Kết:
"Quốc Kỳ Phật Đạo chung nhà
Khải hoàn dân quốc, quốc ca Thái Bình."